Showing 421–440 of 440 results

Ông Ngô Văn Trường (Điện Biên) xin chuyên gia hướng dẫn xác định định mức chi phí lập hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu trường hợp phải thuê tư vấn đấu thầu. Sở Xây dựng thẩm định báo cáo kinh tế - kỹ thuật có chi phí lập hồ sơ mời thầu (HSMT), hồ sơ yêu cầu được tính bằng 0,1% giá gói thầu và UBND tỉnh đã phê duyệt báo cáo kinh tế - kỹ thuật, kế hoạch lựa chọn nhà thầu theo mức chi phí mà Sở Xây dựng đã thẩm định. Nhưng theo Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định mức chi phí lập HSMT, hồ sơ yêu cầu được tính bằng 0,1% giá gói thầu điều này áp dụng đối với trường hợp chủ đầu tư, bên mời thầu trực tiếp thực hiện, còn bên công trình của đơn vị ông (dưới 10 tỷ đồng) là đi thuê tư vấn đấu thầu thì theo Quyết định 79/QĐ-BXD của Bộ Xây dựng thì chi phí là 0,432%. Ông Trường hỏi, vậy khi ký hợp đồng tư vấn thì đơn vị theo mức 0,1% như UBND tỉnh phê duyệt hay theo mức 0,432%?

Nhà thầu X tham dự một gói thầu do Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng huyện A làm bên mời thầu. Trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu (HSDT) của Nhà thầu X, ngày 5/9/2017, Bên mời thầu đã phát hành văn bản yêu cầu Nhà thầu X làm rõ HSDT. Văn bản này nêu rõ: “Trong vòng 3 ngày làm việc (từ ngày 5/9/2017 đến hết ngày 7/9/2017), Nhà thầu X phải có văn bản gửi Bên mời thầu để làm rõ HSDT. Nếu sau 3 ngày nêu trên, Nhà thầu X không có công văn phản hồi thì HSDT của Nhà thầu X được coi là không đáp ứng yêu cầu của HSMT và bị loại”. Do trong thời hạn 3 ngày làm việc nêu trên Nhà thầu X chưa chuẩn bị kịp nội dung làm rõ HSDT nên chỉ nộp một phần tài liệu làm rõ HSDT, đến ngày thứ 4 nhà thầu này mới nộp đủ tài liệu làm rõ HSDT theo yêu cầu của Bên mời thầu. Bên mời thầu đã nhận được văn bản làm rõ HSDT kèm theo các tài liệu cần thiết để làm rõ HSDT của Nhà thầu X vào ngày 8/9/2017 và thời điểm này vẫn đang trong quá trình đánh giá HSDT của gói thầu đó. Hỏi: Bên mời thầu phải tiếp nhận và xử lý tài liệu làm rõ HSDT của Nhà thầu X như thế nào để phù hợp quy định của pháp luật về đấu thầu?

Có một nhà thầu sau khi xem lại hồ sơ dự thầu (HSDT) đã nộp cho Bên mời thầu thì phát hiện ra HSDT của mình thiếu về năng lực và kinh nghiệm theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu (HSMT). Chẳng hạn như có bằng cấp, chứng chỉ đại học của công nhân nhưng chưa đủ năm (thiếu tháng) theo yêu cầu của HSMT (ngày cấp bằng là 20/8/2014, ngày đóng thầu là 12/7/2017, thiếu hơn 1 tháng so với yêu cầu 3 năm của HSMT nên chưa đạt), có hợp đồng tương tự nhưng thiếu giá trị theo yêu cầu của HSMT. Hỏi: Bên mời thầu có được phép đánh giá nhà thầu trên không đạt về năng lực và kinh nghiệm theo yêu cầu của HSMT hay phải gửi văn bản yêu cầu nhà thầu làm rõ bổ sung về năng lực và kinh nghiệm? Nhà thầu có được phép thay thế bổ sung làm rõ hợp đồng tương tự và nhân sự lao động khác không?

Ban Quản lý dự án A có câu hỏi như sau: Theo quy định của Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 tại khoản 1 Điều 5 về các điều kiện đế đảm bảo tư cách hợp lệ của nhà thầu khi tham gia dự thầu trong đó có quy định “Đã đãng ký trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia”, đồng thời tại khoản 3 Điều 5 quy định “Nhà thầu, nhà đầu tư có tư cách hợp lệ theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này được tham dự thầu với tư cách độc ỉập hoặc liên danh”. Như vậy, nếu nhà thầu dự thầu là liên danh thì các thành viên phải tuân thủ theo quy định tại khoản 3 Điều 5, là phải có tư cách hợp lệ quy định tại khoản 1 Điều 5. Trường hợp một trong các thành viên nhà thầu liên danh chưa đăng ký trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia theo quy định của Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 thì được xem là không đảm bảo tư cách hợp lệ. Điều này có phù hợp với quy định của pháp luật không?

Ngân hàng X đang tổ chức lựa chọn nhà thầu cho gói thầu Mua sắm, triển khai dự án A Kế hoạch lựa chọn nhà thầu được phê duyệt với một số nội dung như sau: Giá gói thầu: 20.790.000 USD Hình thức lựa chọn nhà thầu: Đấu thầu rộng rãi quốc tế Thời gian bắt đầu tổ chức lựa chọn nhà thầu: Quý IV/2018. Tuy nhiên trong quá trình đăng tải gặp một số vướng mắc như sau: Mạng đấu thầu quốc gia yêu cầu đăng tải TMĐT của dự án với duy nhất đồng tiền VND và hình thức đấu thầu quốc tế cho phép nhập không quá 3 loại đồng tiền ở phần giá gói thầu và yêu cầu bắt buộc nhập tỷ giá quy đổi VND. Gói thầu trên được thực hiện theo hình thức đấu thầu quốc tế nên TMĐT của Dự án và giá gói thầu được Ngân hàng X phê duyệt bằng USD. Mặt khác, thời điểm phê duyệt dự án (tháng 2/2017) khác thời điểm phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu (tháng 11/2018) nên tỷ giá tại hai thời điểm này hoàn toàn khác biệt và chênh lệch khá lớn. Độc giả xin chuyên gia hướng dẫn đăng tải thông tin Dự án, KHLCNT đối với gói thầu này về tỷ giá quy đối và các nội dung khác liên quan (nếu có).  

Anh Nguyễn Chí Thanh ở Tp. Đà Nẵng có câu hỏi như sau: Anh Thanh làm việc ở hai công ty: Công ty A là thiết kế thẩm tra hồ sơ và cóng ty B là nhà thầu thi công. Chủ đầu tư có giao cho công ty A thẩm tra hồ sơ thiết kế, anh Thanh là người chủ trì thẩm tra. Sau đó, Chủ đầu tư tổ chức đấu thầu thi công. Anh Thanh hỏi anh có đứng tên trong hồ sơ dự thầu của công ty B để tham gia đấu thầu được không?

Trong quá trình đánh giá Hồ sơ dự thầu một gói thầu đấu thầu qua mạng, phần tài liệu để chứng minh năng lực kinh nghiệm tài chính của E-HSDT, nhà thầu scan bản gốc thư cam kết cung cấp tín dụng của ngân hàng không ghi ngày tháng phát hành và trong nội dung thư không ghi thời hạn hiệu lực của cam kết (chỉ ghi cam kết cấp tín dụng cho nhà thầu nếu trúng thầu). Khi đối chiếu với bản gốc thì phát hiện nhà thầu có ghi thêm ngày tháng phát hành vào. Vậy trong tình huống này phải xử lý như thế nào cho đúng luật? Trong phần đối chiếu tài liệu giữa bản scan và bản gốc: Một số tài liệu về hồ sơ thiết bị chủ yếu để thi công không có bản gốc, chỉ có photo công chứng. Vậy có được chấp thuận trong quá trình đánh giá không?

Công ty TNHH tư vấn xây dựng ABC có câu hỏi như sau: Căn cứ Khoản 2 Điều Thông tư 08/2018/TT-BXD ngày 05/10/2018 của Bộ Xây dựng hướng dẫn một số nội dung về chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng, chứng chỉ năng lực hoạt động xây dựng và quản lý nhà thầu nước ngoài hoạt động xây dựng tại Việt Nam có hiệu lực từ ngày 20/11/2018 và thay thế Thông tư 17/2016/TT-BXD ngày 30/6/2016. Hiện nay đơn vị đang chuẩn bị phát hành HSMT (phát hành trước ngày 20/11/2018) gói thầu xảy lắp: Công trình lập báo cáo kinh tế kỹ thuật cấp IV, căn cứ theo Khoản 02 Điều 10 Thông tư 17/2016/TT-BXD ngày 30/6/2016, HSMT do chủng tôi soan thảo và đươc chủ đầu tư phê duyệt không yêu cầu Chứng chỉ năng lực hoat động xây dựng. Như vậy HSMT của chúng tôi có phù hợp với quy định của pháp luật về đấu thầu và quy định của Nghị định 100/2018/NĐ-CP ngày 16/7/2018, Thông tư 08/2018/TT-BXD ngày 05/10/2018?

Công ty TNHH Tư vấn Xây dựng SH có câu hỏi như sau: Căn cứ Khoản 7 Điều 35 Thông tư 03/2016/TT-BKHĐT ngày 05/5/2016 quy định chi tiết đối với hoạt động đào tạo, bồi dưỡng về đấu thầu: Kể từ 01/01/2018 các cá nhân tham gia công tác đấu thầu phải có chứng chỉ hành nghề hoạt động đấu thầu. Đơn vị có ký 1 hợp đồng với chủ đầu tư (chủ đầu tư không có nhân sự có chứng chỉ hành nghề hoạt động đấu thầu và nhân sự của chủ đầu tư không hiểu biết về pháp luật đấu thầu), tuy nhiên do đây là gói thầu hàng hóa đặc thù, nên đơn vị không có chuyên gia chuyên môn để đánh giá chất lượng hàng hóa, Do đó, Chủ đầu tư thành lập tổ chuyên gia chuyên môn (chủ đầu tư có nhân sự chuyên môn này) để đánh giá chất lượng hàng hóa, Nhà thầu Tư vấn lập tổ chuyên gia đánh giá năng lực kinh nghiệp, pháp lý. Như vậy bảo cáo đánh giá của đơn vị có thể kết hợp giữa báo cáo của đơn vị và báo cáo đánh giá của tổ chuyên gia đánh giá chuyên môn của chủ đầu tư được không?

Ban Quản lý X đang tố chức đấu thầu các gói thầu thuộc Dự án Phát triển bền vững thành phố với nguồn vốn vay của Ngân hàng Thế giới và vốn đối ứng của thành phố. Đối với công tác đấu thầu của Dự án, Ban Quản lý sử dụng mẫu Hồ sơ mời thầu do Ngân hàng Thế giới ban hành và tuân thủ theo quy trình hướng dẫn đấu thầu của Nhà tài trợ. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức đấu thầu có phát sinh những tình huống vướng mắc mà theo nội dung trong Hồ sơ mời thầu và hướng dẫn đấu thầu của Nhà tài trợ chưa có hướng dẫn tình huống xử lý cụ thể. Vì vậy, về phía quy trình và thủ tục đấu thầu Việt Nam, Ban Quản lý xin ý kiến chuyên gia hướng dẫn xử lý tình huống cụ thể như sau: Trong Hồ sơ dự thầu nhà thầu có đưa ra hạng mục công việc, khối lượng theo Hồ sơ mời thầu nhưng cột đơn giá dự thầu và cột thành tiền nhà thầu bỏ trống giá trị. Như vậy có hiệu chỉnh sai lệch hoặc sửa lỗi hay không? Theo điểm a, mục 4.2, khoản 4, Chương III — Tiêu chuẩn đánh giá Hồ sơ dự thầu, mẫu Hồ sơ mời thầu xây lắp theo Thông tư 03/2015/TT-BKHĐT nêu: Trường hợp cột đơn giá và thành tiền nhà thầu không ghi giá tri hoặc giá trị bằng “0” thì đươc coi là nhà thầu phân bổ giá của công viêc này vào hang mục của công vièc khác thuộc gói thầu, nhà thầu phải thưc hiên các công việc này theo đúng quy định trong hop đồng và không đươc Chủ đầu tư thanh toán". Như vậy, với tình huống chúng tôi nêu trên được hiểu là sẽ không sửa lỗi và hiệu chỉnh sai lệch cho Hồ sơ dự thầu này có đúng không? Theo khoản 2, Điều 17, Nghị định 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014, hiệu chỉnh sai lệch khi hồ sơ dự thầu có sai lệch về phạm vi cung cấp. Chúng tôi hiểu phạm vi cung cấp ở đây là Nhà thầu chào thừa hoặc thiếu về khối lượng, chào sai hạng mục công việc, hoặc chào thiếu hạng mục công việc có đúng như vậy không và khi đó chúng tôi sẽ hiệu chỉnh sai lệch theo đúng quy định tại khoản 2, Điều 17, Nghị định 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 có đúng không?  

Sau thời điểm đóng thầu, nhà thầu phát hiện các công trình mình kê khai trong Hồ sơ dự thầu không đáp ứng theo yêu cầu của Hồ sơ mời thầu. Và nhà thầu đã bổ sung các hợp đồng hoàn toàn khác với các những hợp đồng đã nộp trong Hồ sơ dự thầu để chứng minh hợp đồng tương tự đáp ứng Hồ sơ mời thầu. Nhà thầu có được phép bổ sung thay đổi các Hợp đồng công trình tương tự sau thời điểm đóng thầu hay không? Như vậy, có thay đổi nội dung cơ bản của Hồ sơ dự thầu đã nộp và làm thay đổi bản chất của Nhà thầu tham dự thầu hay không?

Vừa qua Ban Quản lý các dự án A thuộc ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nằng có tố chức đấu thầu các gói thầu thuộc Dự án B với nguồn vốn vay của Ngân hàng Thế giới và vốn đối ứng của thành phố Đà Nẵng. Đối với công tác đấu thầu của Dự án, chúng tôi sử dụng mẫu Hồ sơ mời thầu do Ngân hàng Thế giới ban hành và tuân thủ theo quy trình hướng dẫn đấu thầu của Nhà tài trợ. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức đấu thầu có phát sinh những tình huống vướng mắc mà theo nội dung trong Hồ sơ mời thầu và hướng dẫn đấu thầu của Nhà tài trợ chưa có hướng dẫn tình huống xử lý cụ thể. Vì vậy, về phía quy trình và thủ tục đấu thầu Việt Nam, Ban Quàn lý các dự án A xin chuyên gia hướng dẫn xử lý tình huống cụ thể như sau: Theo quy định tại mục CDNT 19.1 trong Hồ sơ mời thầu cua nhà tài trợ nêu: “Trường hợp sử dụng thư bảo đảm cùa ngân hàng thì thư bảo đảm phải được lập theo Mẫu bảo đảm dự thầu tại Chương IV- Biểu mẫu dự thầu hoặc theo một mẫu khác tương tự và phải được Chủ đầu tư chấp nhận trước khi nộp HSDT. Thời gian có hiệu lực của bảo đảm dự thầu bằng thời gian có hiêu lưc của HSDT như quy đinh trong HSMT là 180 ngày hoăc sau khi gia han theo Muc 18.2 CDNT cộng thêm 30 ngày". - Nhà thầu tham dự thầu kèm theo một Bảo lãnh dự thầu với Thời gian hiệu lực cụ thể như sau: "(a) nếu Bên yêu cầu bảo đảm trúng thầu: bảo đảm này sẽ hết hiệu lực ngay sau khi chúng tôi nhận được bản sao thỏa thụận hợp đồng có chữ ký của Bên yêu cầu bảo đảm và bản sao Bảo đảm thực hiện hợp đồng và Bảo đảm Thực hiện Trách nhiệm Môi trường, Xã hội, Sức khỏe và An toàn (MXSA) được phát hành cho Bên thụ hưởng theo chỉ thị của Bên yêu cầu bảo đảm; hoặc (b) nếu Bên yêu cầu bảo đảm không trúng thầu: bảo đảm này sẽ hết hiệu lực     (i) ngay sau khi chúng tôi nhận được bản sao văn bản thông báo từ Bên thụ hưởng gửi cho Bên yêu cầu bảo đảm thông báo kết quả đấu thầu; hoặc    (ii) trong vòng 30 ngày sau thời hạn hiệu lực của hồ sơ dự thầu là ngày được xác định thông qua bản sao của Đơn dự thầu và bất kỳ văn bản gia hạn nào, đi kèm với hồ sơ mời thầu được trình lên chúng tôi; hoặc c) 180 ngày kể từ ngày 16/8/2018. ” Ở đây, điều kiện (c) nhà thầu chỉ có 180 ngày kể từ ngày 16/8/2018, khác với yêu cầu của mẫu Bảo lãnh dự thầu trong HSMT là “ba năm sau ngày phát hành bảo đảm này” và điều kiện này cũng ngắn hơn Thời gian hiệu lực của Bảo đảm dự thầu theo HSMT là 210 ngày. Như vậy, Bảo đảm dự thầu cua Nhà thầu này có đáp ứng yêu cầu hay không?

Để thực hiện hoạt động nâng cấp phần mềm “Cổng thông tin điện tử Bộ Y tế”, Văn phòng Bộ Y tế (được Bộ trưởng Bộ Y tế giao nhiệm vụ) đã tiến hành lập Đề cương và Dự toán chi tiết (Theo thông tư 21/2010 /TT-BTTT của Bộ Thông tin Truyền thông) cho hoạt động nói trên và đã được Bộ trưởng Bộ Y tế phê duyệt (dưới sự chù trì thẩm định của Cục CNTT - Bộ Y tế). Để lựa chọn đơn vị thực hiện nâng cấp phần mềm theo Đề cương đã được phê duyệt, Văn phòng Bộ xác định đây là gói thầu mua sắm hàng hóa căn cứ theo các quy định sau: - Khoản 25 Điều 4 Luật đấu thầu số 43/2013/QH quy định: Hàng hóa bao gồm máy móc, thiết bị, nguyên liệu, vật liệu, vật tư, phụ tùng; hàng tiêu dùng; thuốc, vật tư y tế dùng cho các cơ sở y tế. - Điểm b Khoản 2 Điều 28 Nghị định 102/2009/NĐ-CP, chi phi thiết bị bao gồm: Thiết bị phải lắp đặt và cài đặt, thiết bị không phải lắp đặt và cài đặt, thiết bị đặc biệt là phần mềm nội bộ các thiết bị phụ trợ và thiết bị ngoại vi. - Theo Khoản 3 Điều 2 cùa Nghị định số 102/2009/NĐ-CP thì: "Phần mềm nội bộ" là phần mềm được phát triển, nâng cấp, chỉnh sửa theo các yêu cầu riêng của tổ chức, hoặc người sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu đặc thù của tổ chức và được sử dụng trong nội bộ tổ chức đó. Tuy nhiên, trong quá trình thẩm định phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu, nhiều ý kiến cho rằng hoạt động này thuộc gói thầu dịch vụ tư vấn. Vậy, Văn phòng Bộ Y tế xin hỏi Quý cơ quan hoạt động nâng cấp cổng thông tin điện tử Bộ Y tế là thuộc gói thầu mua sắm hàng hóa hay dịch vụ tư vấn?

Công ty dịch vụ X có câu hỏi như sau: Đơn vị chúng tôi chuẩn bị thực hiện một số gói thầu tổ chức các chương trình tiếp thị. bán hàng trong đó nội dung công việc dự kiến như sau: chuẩn bị các thủ tục pháp lý, xây dựng kịch bản cua chương trình, khảo sát, xin phép tổ chức, cung cấp nhân sự, trang thiết bị và công cụ dụng cụ (gồm gian hàng, bàn, ghế, quà tặng...) để tổ chức chương trình. Hình thức lựa chọn nhà thầu là đấu thầu rộng rãi. Xin được hỏi chuyên gia, với gói thầu có những công việc như trên thì hồ sơ mời thầu sẽ lập theo gói thầu phi tư vấn hay gói thầu cung cấp hàng hóa?

Ông Tân hỏi chuyên gia: Hồ sơ yêu cầu quy định hiệu lực của hồ sơ đề xuất là 60 ngày kể từ ngày có thời điểm đóng thầu là ngày 25/9/2017. Tuy nhiên, nhà thầu đã làm xong hồ sơ đề xuất sớm và gửi lại trong đó đơn đề xuất của nhà thầu ghi hồ sơ đề xuất có hiệu lực là 70 ngày kể từ ngày 20/9/2017 (hiệu lực của hồ sơ đề xuất sớm hơn 5 ngày so với yêu cầu của hồ sơ yêu cầu).Hồ sơ đề xuất của nhà thầu có hợp lệ theo quy định của Luật Đấu thầu không?

Đối với gói thầu di dời công trình hạ tầng kỹ thuật thì có thể chỉ định thầu cho đơn vị không trực tiếp quản lý công trình nhưng đáp ứng các điều kiện về năng lực, kinh nghiệm được hay không?

Liên quan đến công tác phê duyệt dự toán, ông Nam giám đốc Công ty Thái Nam có câu hỏi như sau: Dự toán gói thầu được lập tuân thủ đúng theo quy định về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình. Tuy nhiên, khi phê duyệt dự toán, chủ đầu tư đã quyết định giảm trừ 5% giá trị dự toán với lý do để bảo đảm cạnh tranh và tiết kiệm kinh phí trong đầu tư xây dựng các công trình sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Việc chủ đầu tư phê duyệt dự toán gói thầu như trên có phù hợp với quy định của pháp luật đấu thầu hiện hành hay không?

Công ty TNHH liên doanh có 70% vốn điều lệ của nước ngoài, 30% vốn góp của doanh nghiệp Nhà nước. Vậy dự án của công ty có thuộc phạm vi điều chỉnh theo Điểm c, Khoản 1, Điều 1 Luật Đấu thầu không? Hỏi: Đại diện công ty đặt câu hỏi cũng muốn biết, vốn điều lệ có phải là căn cứ để xác định doanh nghiệp thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu hay không hay là căn cứ phần vốn Nhà nước trong tổng mức đầu tư của từng dự án đầu tư phát triển cụ thể?

Độc giả Hạ Uyên (tỉnh Ninh Thuận) đặt câu hỏi như sau: Tôi công tác tại đơn vị sự nghiệp tự chủ một phần kinh phí thường xuyên, có hoạt động sản xuất dịch vụ không sử dụng ngân sách Nhà nước. Tôi xin hỏi, đối với hoạt động sản xuất dịch vụ không sử dụng ngân sách Nhà nước thì việc mua nguyên, nhiên liệu đầu vào có phải tổ chức đấu thầu hay không?
Nếu tổ chức đấu thầu thì dự toán phải được cấp có thẩm quyền phê duyệt, thế nhưng đối với hoạt động sản xuất dịch vụ của đơn vị là được tự chủ theo Thông tư 145/2017/TT-BTC. Mặt khác, hoạt động sản xuất dịch vụ của đơn vị sản xuất giống và nuôi trồng thủy sản nên có tính mùa vụ rất lớn, nếu ngay từ đầu năm đơn vị tổ chức đấu thầu theo kế hoạch nhưng trong năm căn cứ vào mùa vụ có sự điều chỉnh kế hoạch thì các nguyên vật liệu mua từ ban đầu không còn phù hợp để tổ chức sản xuất trong năm thì đơn vị lại bị động trong khâu mua nguyên vật liệu đầu vào. Nếu thực hiện đấu thầu thì tốn thời gian cho quá trình thực hiện, đơn vị không chủ động được trong sản xuất (ví dụ đầu năm đơn vị lập kế hoạch sản xuất 200 triệu con giống tôm thẻ chân trắng, nhưng trong năm thời tiết bất lợi, thị trường không có nên đã giảm bớt năng suất, tuy nhiên đầu năm đã phải mua hết nguyên liệu qua công tác đấu thầu để sản xuất 200 triệu con giống rồi, nên đơn vị gặp rắc rối khi thực hiện hợp đồng). Còn nếu không thực hiện đấu thầu thì không biết có đúng với quy định của pháp luật không?

Công ty ông Vũ Đức Triệu (Hà Nội) có 70% vốn Nhà nước, thực hiện dự án đầu tư lấy vốn từ quỹ đầu tư phát triển và vốn kinh doanh. Công ty xác định, dự án không thuộc đối tượng áp dụng của Luật Đấu thầu nên khi đầu tư công ty không thực hiện theo quy định tại Luật này. Ông Triệu hỏi, như vậy có đúng không?