Đối với tình huống này, chuyên gia của chúng tôi trả lời như sau:
Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 15 khoản 1) quy định việc đánh giá hồ sơ dự thầu phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu và các yêu cầu khác trong hồ sơ mời thầu, căn cứ vào hồ sơ dự thầu đã nộp, các tài liệu giải thích, làm rõ hồ sơ dự thầu của nhà thầu để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu.
Liên quan đến hợp đồng không hoàn thành, theo hướng dẫn tại ghi chú số (2) Chương III của Mẫu hồ sơ mời thầu xây lắp áp dụng phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ (Mẫu số 02) ban hành kèm theo Thông tư số 03/2015/TT- BKHĐT ngày 06/5/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hợp đồng không hoàn thành bao gồm: (i) hợp đồng bị Chủ đầu tư kết luận nhà thầu không hoàn thành và nhà thầu không phản đối; (ii) hợp đồng bị Chủ đầu tư kết luận nhà thầu không hoàn thành, không được nhà thầu chấp thuận nhưng đã được trọng tài hoặc tòa án kết luận theo hướng bất lợi cho nhà thầu. Các hợp đồng không hoàn thành không bao gồm các hợp đồng mà quyết định của Chủ đầu tư đã bị bác bỏ bằng cơ chế giải quyết tranh chấp. Hợp đồng không hoàn thành phải dựa trên tất cả những thông tin về tranh chấp hoặc kiện tụng được giải quyết theo quy định của cơ chế giải quyết tranh chấp của hợp đồng tương ứng và khi mà nhà thầu đã hết tất cả các cơ hội có thể khiếu nại. Theo đó, việc xác định hợp đồng không hoàn thành được thực hiện trên cơ sở hướng dẫn nêu trên. Trường hợp nhà thầu thi công chậm tiến độ nhưng không bị chủ đầu tư chấm dứt hợp đồng (vẫn hoàn thành công trình) thì không bị coi là hợp đồng không hoàn thành.