Đối với tình huống này, chuyên gia của chúng tôi trả lời như sau:
Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 18 khoản 2 điểm d) quy định một trong các điều kiện đánh giá tính hợp lệ của hồ sơ dự thầu là có bảo đảm dự thầu với giá trị và thời hạn hiệu lực đáp ứng yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Đối với trường hợp quy định bảo đảm dự thầu theo hình thức nộp thư bảo lãnh thì thư bảo lãnh phải được đại diện hợp pháp của tổ chức tín dụng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập theo pháp luật Việt Nam ký tên với giá trị và thời hạn hiệu lực, đơn vị thụ hưởng theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu
Theo hướng dẫn tại Mục 17.2 Chương I của Mầu hồ sơ mời thầu xây lắp qua mạng một giai đoạn hai túi hồ sơ (Mầu số 4) ban hành kèm theo Thông tư số 04/2017/TT-BKHĐT ngày 15/11/2017 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, bảo đảm dự thầu được coi là không hợp lệ khi thuộc một trong các trường họp sau đây: có giá trị thấp hơn, thời gian hiệu lực ngắn hơn so với yêu cầu quy định tại Mục 17.1 E-CDNT, không đúng tên bên mời thầu (đơn vị thụ hưởng), không có chữ ký hợp lệ hoặc có kèm theo điều kiện gây bất lợi cho Bên mời thầu.
Theo đó, trường hợp trong E-HSMT quy định bên mời thầu là “Trung tâm kỹ thuật đường bộ 1” thì việc trong thư bảo lãnh dự thầu của nhà thầu B ghi đơn vị thủ hưởng là “Trung tâm kỹ thuật đường bộ I” (ghi nhầm “1” thành “I”) được coi là lỗi chính tả. Trong trường họp này, nếu thư bảo lãnh của nhà thầu A đáp ứng các điều kiện khác theo E-HSMT thì bên mời thầu yêu cầu nhà thầu A đính chính lại tên đơn vị thụ hưởng thành”Trung tâm kỹ thuật đường bộ I” và tiếp tục xem xét, đánh giá E-HSDT của nhà thầu A.