Đối với tình huống này, chuyên gia của chúng tôi trả lời như sau:
Luật đấu thầu (Điều 3 khoản 3) quy định đối với việc lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư thuộc dự án có sử dụng vốn hồ trợ phát triến chính thức (ODA), vốn vay ưu đãi phát sinh từ điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế giữa Việt Nam với nhà tài trợ thì áp dụng theo quy định của điều ước quốc tế và thỏa thuận quốc tế đó. Theo đó, do gói thầu sử dụng nguồn vốn vay của Ngân hàng Thế giới nên việc lựa chọn nhà thầu được thực hiện theo hướng dẫn đấu thầu của nhà tài trợ nêu trong hiệp định đã ký kết.
Trường hợp việc lựa chọn nhà thầu các gói thầu thuộc dự án B được thực hiện theo quy định của pháp luật đấu thầu Việt Nam thi việc đánh giá hồ sơ dự thầu được thực hiện theo hướng dẫn sau:
Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 18 khoản 2 điểm d) quy định một trong nhũng nội dung đánh giá tính hợp lệ của hồ sơ dự thầu là có bảo đảm dự thầu với giá trị và thời hạn hiệu lực đáp ứng yêu cầu của hồ sơ mời thâu. Đối với trường hợp quy định bảo đảm dự thầu theo hình thức nộp thư bảo lãnh thì thư bảo lãnh phải được đại diện hợp pháp của tô chức tín dụng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập theo pháp luật Việt Nam ký tên với giá trị và thời hạn hiệu lực, đơn vị thụ hưởng theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu.
Theo đó, trường hợp hồ sơ mời thầu quy định thời gian có hiệu lực của bảo lãnh dự thầu tổi thiểu là 210 ngày thì việc thư bảo lãnh dự thầu của nhà thầu có thời gian hiệu lực là 180 ngày được đánh giá là không đáp ứng yêu cầu nêu trên của hồ sơ mời thầu. Tuy nhiên, nội dung hồ sơ mời thầu trong văn bản hỏi là chưa rõ ràng (không rõ thời gian có hiệu lực của bảo lãnh dự thầu là 180 ngày hay 180 ngày + 30 ngày).