Đối với vấn đề nói trên chuyên gia của chúng tôi cho rằng:
Theo quy định điểm d khoản 2 Điều 18 Nghị định 63/2014/NĐ-CP, bảo đảm dự thầu được đánh giá hợp lệ khi có giá trị và thời hạn hiệu lực đáp ứng yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Đối với trường hợp quy định bảo đảm dự thầu theo hình thức nộp thư bảo lãnh thì thư bảo lãnh phải được đại diện hợp pháp của tổ chức tín dụng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập theo pháp luật Việt Nam ký tên với giá trị và thời hạn hiệu lực, đơn vị thụ hưởng theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu.
Bên cạnh đó, một trong các nguyên tắc đánh giá HSDT được quy định tại khoản 1 Điều 15 của Nghị định 63/2014/NĐ-CP là: Việc đánh giá hồ sơ dự thầu phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu và các yêu cầu khác trong hồ sơ mời thầu, căn cứ vào hồ sơ dự thầu đã nộp, các tài liệu giải thích, làm rõ hồ sơ dự thầu của nhà thầu để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu.
Do vậy, đối với trường hợp nói trên nếu tại thời điểm phát hành bảo lãnh người ký thư bảo lãnh có đủ thẩm quyền để phát hành thì bảo lãnh vẫn được đánh giá hợp lệ.