Đối với tình huống này, chuyên gia của chúng tôi trả lời như sau:
Luật đấu thầu (Điều 11 khoản 4) quy định thời gian có hiệu lực của bảo đảm dự thầu được quy định trong hồ sơ mời thầu (HSMT) bằng thời gian có hiệu lực của hồ sơ dự thầu (HSDT) cộng thêm 30 ngày. Trong đó, thời gian có hiệu lực của HSDT là số ngày được quy định trong HSMT và được tính kể từ ngày có thời điểm đóng thầu đến ngày cuối cùng có hiệu lực theo quy định trong HSMT. Từ thời điểm đóng thầu đến hết 24 giờ của ngày đóng thầu được tính là 01 ngày (Luật đấu thầu Điều 4 Khoản 42).
Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 18 khoản 2) quy định HSDT hợp lệ phải có bảo đảm dự thầu với giá trị và thời hạn hiệu lực đáp ứng yêu cầu của HSMT. Đối với trường hợp quy định bảo đảm dự thầu theo hình thức nộp thư bảo lãnh thì thư bảo lãnh phải được đại diện hợp pháp của tổ chức tín dụng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập theo pháp luật Việt Nam ký tên với giá trị và thời hạn hiệu lực, đơn vị thụ hưởng theo yêu câu của HSMT.
Đối với tình huống này, khi HSMT quy định bảo đảm dự thầu có hiệu lực tối thiểu là 120 ngày kể từ 14 giờ ngày 17/9/2015 thì các bảo lãnh ghi thời gian có hiệu lực với thời điểm bắt đầu là ngày 17/9/2015 (không ghi rõ giờ bắt đầu hoặc ghi rõ giờ bắt đầu không muộn hơn thời điểm đóng thầu) đồng thời ghi thời điểm kết thúc là ngày 14/01/2016 hoặc giờ cụ thể thuộc ngày 14/01/2016 được coi là đáp ứng yêu cầu về thời gian có hiệu lực.