Chuyên gia của chúng tôi đã có ý kiến như sau:
Khoản 2 Điều 6 Luật đấu thầu 43/2013/QH13 quy định nhà thầu tham dự thầu phải độc lập về pháp lý và độc lập về tài chính với các bên sau đây: (i) chủ đầu tư, bên mời thầu; (ii) các nhà thầu tư vấn lập, thẩm tra, thấm định hồ sơ thiết kế, dự toán; lập, thẩm định hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu; đánh giá hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất; thẩm định kết quả lựa chọn nhà thầu gói thầu đó; (iii) các nhà thầu khác cùng tham dự thầu trong một gói thầu đối với đấu thầu hạn chế.
Khoản 4 Điều 2 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định nhà thầu được đánh giá độc lập về pháp lý và độc lập về tài chính với nhà thầu khác; với nhà thầu tư vấn; với chủ đầu tư, bên mời thầu quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 6 của Luật Đấu thầu khi đáp ứng các điều kiện sau đây: (i) không cùng thuộc một cơ quan hoặc tổ chức trực tiếp quản lý đối với đơn vị sự nghiệp; (ii) nhà thầu với chủ đầu tư, bên mời thầu không có cổ phần hoặc vốn góp trên 30% của nhau; (iii) nhà thầu không có cổ phần hoặc vốn góp trên 20% của nhau khi cùng tham dự thầu trong một gói thầu đối với đấu thầu hạn chế; (iv) nhà thầu tham dự thầu với nhà thầu tư vấn cho gói thầu đó không có cổ phần hoặc vốn góp của nhau; không cùng có cổ phần hoặc vốn góp trên 20% của một tổ chức, cá nhân khác với từng bên.
Như vậy, nhà thầu tham dự thầu phải đáp ứng quy định về bảo đảm cạnh tranh nêu trên (trừ gói thầu áp dụng hình thức chỉ định thầu). Theo đó, trường hợp Trung tâm A là đơn vị sự nghiệp công lập do Bộ X trực tiếp quản lý tham dự thầu gói thầu do Trung tâm B1 (là đơn vị sự nghiệp do Cục B trực tiếp quản lý) làm chủ đầu tư được coi là không vi phạm quy định tại điểm (i) khoản 4 Điều 2 Nghị định số 63/2014/NĐ- CP nêu trên.