Đối với tình huống này, chuyên gia của chúng tôi trả lời như sau:
Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 18 khoản 2 điểm d) quy định một trong các nội dung đánh giá tính hợp lệ của bảo đảm dự thầu là có bảo đảm dự thầu vói giá trị và thời hạn hiệu lực đáp ứng yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Đối với trường hợp quy định bảo đảm dự thầu theo hình thức nộp thư bảo lãnh thì thư bảo lãnh phải được đại diện hợp pháp của tổ chức tín dụng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập theo pháp luật Việt Nam ký tên với giá trị và thời hạn hiệu lực, đơn vị thụ hưởng theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu.
Đối với trường hợp này, trường hợp nhà thầu nộp thư bảo lãnh dự thầu của ngân hàng do cấp phó ký nhưng không kèm theo văn bản chứng minh tính hợp lệ như văn bản ủy quyền, văn bản phân cấp ký thì trong trường hợp này, để xác minh tính hợp lệ của chữ ký, bên mời thầu có thể yêu cầu nhà thầu bổ sung, làm rõ các văn bản, tài liệu để chứng minh tính họp lệ của bảo lãnh dự thầu đã nộp theo quy định tại Điều 16 Nghị định 63/2014/NĐ-CP hoặc trực tiếp liên hệ với ngân hàng để xác minh tính hợp lệ của chữ ký. Nếu nhà thầu hoặc ngân hàng cung cấp được văn bản ủy quyền hoặc văn bản phân cấp ký hợp lệ và ngoài ra các nội dung khác của bảo lãnh dự thầu đáp ứng yêu cầu về gía trị, thời hạn hiệu lực và đơn vị thụ hưởng theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu thì bảo lãnh dự thầu của nhà thầu được đánh giá hợp lệ.