Showing 261–280 of 440 results

Công ty X trong quá trình tham gia đấu thầu qua mạng gặp tình huống như sau: Trong E-HSMT của chủ đầu tư yêu cầu tại mục máy móc thiết bị thi công chủ yếu, Chủ đầu tư yêu cầu dụng cụ thi công chủ yếu cho danh mục Kìm ép đầu cốt số lượng là 01 bộ. Nhà thầu chúng tôi dự thầu trong E-HSDT danh mục “Kìm ép cốt” là thuộc sở hữu nhà thầu, có scan hóa đơn photo về việc mua kìm éo cốt vào năm 2013 đế chứng minh số lượng đáp ứng là 05 bộ, đơn giá là 900.000 đồng/bộ. Tuy nhiên, khi rà sát lại Hồ sơ gốc, phát hiện hóa đơn gốc về việc mua kìm ép cốt trên lại vào năm 2015, số lượng thể hiện là 03 bộ, đơn giá là 1.500.000 đồng/ bộ, nguyên nhân sai sót là do khi photo hóa đơn để scan lên hệ thống, hóa đơn bị mờ, nhân viên tự sửa lại nội dung mà không đối chiếu bản gốc. Công ty X xin hỏi đối với tình huống này nhà thầu có thể bị coi là hành vi gian lận trong đấu thầu không?

Ông Nguyễn Văn Hoàng ở Gia Lai có câu hỏi như sau: Hiện nay, đơn vị tôi được chủ đầu tư chỉ định thầu thực hiện tư vấn lựa chọn nhà thầu gói thầu: Xây dựng đường giao thông nông thôn với hình thức lựa chọn nhà thầu là đấu thầu rộng rãi. Chúng tôi đã lựa chọn các nhân sự để thành lập tổ chuyên gia là các kỹ sư tốt nghiệp ngành dân dụng và công nghiệp. Các nhân sự đều đã tốt nghiệp trên 15 năm hoạt động trong ngành xây dựng. Có năng lực kinh nghiệm các chuyên gia đã từng thực hiện tư vấn đấu thầu các gói thầu: xây dựng (công trình dân dụng, công trình công nghiệp, công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình giao thông), mua sắm hàng hóa, tư vấn, phi tư vấn. Các nhân sự này đều đã được cấp chứng chỉ hành nghề về đấu thầu. Khi chúng tôi đang chuẩn bị đánh giá HSDT cho gói thầu về thi công đường giao thông với giá trị gói thầu 30 tỷ đồng và công trình cấp III, phía Chủ đầu tư yêu cầu chuyên gia tư vấn đấu thầu tham gia gói thầu trên phài có bằng tốt nghiệp đại học ngành giao thông và ngành điện. Xin hỏi chuyên gia, yêu cầu như vậy có phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành không?

Công ty chúng tôi là đơn vị tư vấn giám sát dự án. Qua công tác thi công tại hiện trường, Công ty nhận thấy theo thiết kế chiều dày lớp đất bề mặt cần bóc bỏ trung bình 0,3m nhưng thực tế thi công, do lớp đất bề mặt yếu, không bảo đảm khả năng chịu lực, hệ số đầm chặt không đạt k90 nên Công ty đề nghị bóc bỏ toàn bộ lớp đất yếu nêu trên dẫn tới chiều dày tăng lên khoảng 1,2m (chiều sâu lớp đất yếu bóc bỏ thực tế phù hợp với số liệu khảo sát địa chất). Theo thiết kế, chiều dài cọc tre gia cố nền đất là 3m, tuy nhiên thực tế khi đóng cọc tre chỉ xuống được độ sâu khoảng 1,5m đến 2m là đạt độ chối. Hình thức hợp đồng xây lắp ký giữa nhà thầu và chủ đầu tư là hợp đồng trọn gói. Hồ sơ thiết kế có khảo sát địa chất. Đại diện Công ty hỏi, khi lập hồ sơ thanh toán đơn vị tư vấn giám sát đề nghị lập bảng khối lượng chi tiết thực tế để cắt đi những khối lượng thừa (cọc tre) và bổ sung khối lượng đất bóc thiếu xác nhận phát sinh có đúng quy định không? Trách nhiệm của các bên liên quan (chủ đầu tư, tư vấn thiết kế, tư vấn thẩm tra, tư vấn giám sát, nhà thầu) đối với trường hợp hợp đồng trọn gói đến đâu?

Tình huống: Độc giả Lê Minh Tuấn - TP. Đà Nẵng đặt câu hỏi như sau: Khi tổ chức đấu thầu cho dự án trong cơ quan tôi gặp phải tình huống như sau: Hồ sơ dự thầu của Công ty D có kê khai 1 loại thiết bị và có giấy kiểm định nhưng giấy kiểm định này đã hết hạn trước thời điểm đóng thầu. Do đó, bên mời thầu yêu cầu nhà thầu làm rõ, bổ sung giấy kiểm định còn hiệu lực cho thiết bị trên. Nhà thầu đã gửi giấy kiểm định cho thiết bị trên nhưng giấy kiểm định ghi ngày sau thời điểm đóng thầu. Đơn vị tư vấn cho rằng giấy kiểm định của nhà thầu (sau khi làm rõ) ghi ngày sau thời điểm đóng thầu là không hợp lệ và loại bỏ nhà thầu trên. Sau khi nghiên cứu hồ sơ mời thầu theo mẫu Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tôi cho rằng những lỗi sai sót nêu trên là sai sót không nghiêm trọng và hồ sơ dự thầu của nhà thầu cơ bản đáp ứng hồ sơ mời thầu (Điều 29, Điều 30 - Chương I của hồ sơ mời thầu theo Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT); đồng thời nhà thầu bị loại có giá thấp nhất. Hỏi: Tôi muốn hỏi, đánh giá của đơn vị tư vấn như trên là có phù hợp?

Công ty tôi có 3 gói thầu có nội dung tương tự, thực hiện vào các thời điểm khác nhau. Công ty đã lựa chọn nhà thầu gói thầu thứ nhất theo hình thức đấu thầu rộng rãi trong nước, áp dụng hình thức mua sắm trực tiếp cho gói thầu thứ hai. Hỏi: Hiện nay Công ty muốn tiếp tục áp dụng hình thức mua sắm trực tiếp đối với gói thầu thứ ba có được không? Với gói thầu thứ nhất thì Công ty có thể thực hiện được bao nhiêu gói thầu tương tự khác thông qua hình thức mua sắm trực tiếp?

Đơn vị tôi đang trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu thì phát hiện ra hồ sơ hợp đồng tương tự của nhà thầu A đạt yêu cầu của hồ sơ mời thầu, nhưng có dấu hiệu cắt dán, gian lận, mặc dù đã có công chứng. Đơn vị đã làm văn bản để yêu cầu nhà thầu bổ sung, làm rõ và mang hợp đồng, biên bản nghiệm thu gốc để đối chiếu nhưng nhà thầu trả lời đang chuyển văn phòng nên không thể cung cấp được hồ sơ và yêu cầu bên mời thầu tiếp tục đánh giá theo hồ sơ nhà thầu đã nộp. Hỏi: Xin hỏi, đơn vị tôi tiếp tục đánh giá hồ sơ của nhà thầu hay có thể loại nhà thầu từ bước này?

Ông Lê Đàm Huy Vũ (Phú Yên) đang thực hiện dự án xây dựng bảng giá đất 5 năm (2020-2024) và công tác định giá đất cụ thể hàng năm do cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh thực hiện. Ông đối chiếu với quy định tại Khoản 8, Khoản 9, Điều 4 Luật đấu thầu nhưng không thấy nêu rõ gói thầu dự án xây dựng bảng giá đất 5 năm (2020-2024) và công tác định giá đất cụ thể hàng năm thuộc loại hình dịch vụ tư vấn hay phi tư vấn. Tuy nhiên tại Điểm h, Khoản 1, Điều 2 Thông tư số 58/2016/TT-BTC ngày 29/3/2016 của Bộ Tài chính quy định dịch vụ thẩm định giá thuộc loại hình dịch vụ phi tư vấn. Ông Vũ hỏi, gói thầu dự án xây dựng bảng giá đất 5 năm (2020-2024) và công tác định giá đất cụ thể hàng năm do cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh thực hiện thuộc gói thầu dịch vụ tư vấn hay dịch vụ phi tư vấn?

Công ty tư vấn đấu thầu A trong quá trình đánh giá E-HSDT có tình huống như sau: Theo E-HSDT của một nhà thầu đính kèm đơn chào hàng trên mạng với giá chào hàng là 2.694.989.000 đồng. Tuy nhiên, do nhà thầu nhập sai thông tin về giá dự thầu trong webform nên giá chào hàng của nhà thầu trong Biên bản mở thầu điện tử là 2.664.989.000 đồng (nhập sai so với đơn chào hàng là giảm 30 triệu đồng). Giá chào hàng của nhà thầu trong bảng tống hợp giá sau khi hiệu chỉnh sai số do lỗi số học là: 2.789.313.000 đồng (Sai số do do lõi sổ học là: 94.324.000 đồng). Trong hồ sơ yêu cầu do Chủ đầu tư phát hành có ghi “Mục 17: Điều kiện xét duyệt trúng thầu: Có sai lệch thiếu không quá 10% giá chào”. Xin hỏi chuyên gia đối với trường hợp này giá chào hàng nào của nhà thầu được coi là hợp lệ?

Công ty A là đơn vị tư vấn đấu thầu, đang tiến hành đánh giá E-HSDT cho gói thầu mua sắm hàng hóa đấu thầu qua mạng, có hỏi tình huống như sau: Sau khi xếp hạng nhà thầu, để tránh mất thời gian làm rõ nhiều lần, tư vấn làm rõ E-HSDT của 05 nhà thầu xếp hạng đầu theo giá dự thầu thấp nhất cùng 1 lúc, căn cứ theo nội dung kê khai và file tài liệu chứng minh mà nhà thầu đã đính kèm trên mạng. Tư vấn lần lượt đánh giá tính hợp lệ E-HSDT, đánh giá về năng lực và kinh nghiệm, đánh giá về kỹ thuật của nhà thầu xếp hạng thứ nhất. Trường hợp nhà thầu xếp hạng thứ nhất không đáp ứng thì thực hiện các bước đánh giá nêu trên đối với nhà thầu xếp hạng tiếp theo. Do đã làm rõ E-HSDT trước, nên tư vấn đánh giá năng lực kinh nghiệm của nhà thầu xếp hạng 1 không đạt, và tiếp tục đánh giá nhà thầu xếp hạng tiếp theo Căn cứ theo khoản 5, điều 15 của Thông tư số 04/2017/TT-BKHĐT ngày 15/11/2017 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định chi tiết về lựa chọn nhà thầu qua hệ thống mạng đấu thầu quốc gia, đối với các nội dung về năng lực và kinh nghiệm, việc đánh giá E-HSDT được thực hiện trên cơ sở các thông tin nhà thầu kê khai trong E- HSDT mà không yêu cầu nhà thầu phải đính kèm file tài liệu chứng minh....Nhà thầu được mời vào thương thảo hợp đồng phải nộp các tài liệu chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm, năng lực kỹ thuật cho bên mời thầu để đối chiếu với thông tin nhà thầu kê khai trong E-HSDT. Như vậy, tư vấn yêu cầu làm rõ E-HSDT trong quá trình đánh giá, thay vì thương thảo hợp đồng mới yêu cầu nộp tài liệu làm rõ. Điều này có sai quy trình đánh giá theo Thông tư 04/2017/TT-BKHĐT không?  

Một công ty tư vấn đang thực hiện giám sát thi công cho một dự án về xây dựng có câu hỏi như sau: Trong hồ sơ mời thầu gói thầu tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình không có mục nào quy định về nhà thầu phụ, vậy xin hỏi Công ty có được đề xuất nhà thầu phụ hay không? Có quy định nào về nhà thầu phụ trong công tác tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình hay không và phần trăm (%) cho nhà thầu phụ là bao nhiêu? Trường hợp Công ty đã đề xuất nhà thầu phụ trong hồ sơ dự thầu là 30% thì có phù hợp với quy định của luật đấu thầu không? Sau khi trúng thầu Công ty có được phép thay đổi phần trăm (%) cho nhà thầu phụ không?

Chủ đầu tư X của một dự án đang thực hiện gói thầu về Thiết kế và Xây dựng (EC) có câu hỏi như sau: Theo Nghị định số 32/2015/NĐ-CP ngày 25/3/2015 của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây dựng: Điều 12 quy định chung về dự toán gói thầu xây dựng, như vậy đối với dự toán các gói thầu theo các điều 13, 14, 15,16 phải tuân thủ các quy định chung tại Điều 12 Nghị định nêu trên. Cụ thể: Tại Khoản 1, Điều 12 Nghị định số 32/2015/NĐ-CP ngày 25/3/2015 của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây dựng quy định “Dự toán gói thầu xây dựng xác định theo từng gói thầu, phù hợp với kế hoạch lựa chọn nhà thầu, dự toán xây dựng công trình đã được phê duyệt và được thực hiện trước khi tổ chức lựa chọn nhà thầu xây dựng”. Tại Khoản 3, Điều 12 Nghị định số 32/2015/NĐ-CP ngày 25/3/2015 của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây dựng quy định: “Chủ đầu tư tổ chức xác định, cập nhật dự toán gói thầu xây dựng, thực hiện thẩm định, phê duyệt để thay thế giá gói thầu xây dựng ghi trong kế hoạch lựa chọn nhà thầu đã phê duyệt, làm cơ sở để lập Hồ sơ mời thầu hoặc Hồ sơ yêu cầu và đánh giá lựa chọn nhà thầu xây dựng”. Tuy nhiên, đối với gói thầu EC, công tác phê duyệt dự toán công trình được thực hiện sau khi lựa chọn được nhà thầu EC, do đó chưa có cơ sở để xem xét sự phù hợp của dự toán gói thầu xây dựng với dự toán công trình đã được phê duyệt và chưa có cơ sở để lập Hồ sơ mời thầu theo các quy định nêu trên. Vì vậy, Chủ đầu tư X đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn nội dung sau: Việc căn cứ vào dự án đã được phê duyệt để lập, thẩm định và phê duyệt dự toán giá gói thầu, lập hồ sơ mời thầu, lựa chọn nhà thầu thực hiện dự án mà chưa xem xét đến sự phù họp của dự toán gói thầu với dự toán công trình có trái với các quy định hiện hành hay không? Giá hợp đồng với nhà thầu được xác định trên trên cơ sở tổng mức đầu tư đã được phê duyệt; giá hợp đồng chính thức xác định sau khi dự toán công trình được cấp có thẩm quyền phê duyệt ở bước tiếp theo có phù hợp với các quy định hiện hành?

Chủ đầu tư X có tình huống về bảo lãnh thực hiện hợp đồng bằng séc như sau: Ngày 27/6/2019 Chủ đầu tư X đã ký hợp đồng để thực hiện gói thầu xây lắp với đơn vị trúng thầu, nhà thầu đã nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng theo hình thức Séc với giá trị theo đúng yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Tuy nhiên trên Séc thiếu dấu của ngân hàng phát hành Séc. Sau khi Chủ đầu tư rà soát phát hiện ra tờ séc thiếu dấu của ngân hàng và đã yêu cầu nhà thầu bổ sung. Nhà thầu đã đến nhận lại tờ Séc và đến ngân hàng để bổ sung dấu. Ngân hàng đã ghi bảo chi ngày 25/8/2019. Vậy nếu tính theo ngày bảo chi cùa ngân hàng ghi trên Séc (25/8/2019) quá ngày ký hợp đồng (27/6/2019); nếu tính theo ngày ghi trên Séc (ngày nộp của đơn vị 27/6/2019) phù hợp với ngày ký hợp đồng. Séc dùng để bảo lãnh thực hiện hợp đồng như trên có hợp lệ không? và hướng xử lý đối với tình huống trên như thế nào?  

Nhà thầu chính được giao tối đa bao nhiêu % giá trị gói thầu xây lắp cho nhà thầu phụ? Bên mời thầu lập HSMT gói xây lắp, mẫu HSMT ở bảng dữ liệu bắt ghi % giá trị công việc cho nhà thầu phụ, bên mời thầu đã quy định: "không quá 10% hoặc dưới 10% nhưng trên 50 tỷ" thì có đúng không?

Doanh nghiệp X có hỏi chuyên gia như sau: Doanh nghiệp X tham gia dự thầu một gói thầu xây lắp đấu thầu rộng rãi qua mạng và chỉ có Doanh nghiệp X tham gia. Sau quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu, Chủ đầu tư đã mời Nhà thầu X thương thảo hợp đồng và sau buối thương thảo, đại diện hai bên đã tiến hành ký thương thảo hợp đồng để chuẩn bị ký kết hợp đồng. Do công trình có thời gian thực hiện hợp đồng hơi ngắn, nên sau khi ký thương thảo hợp đồng với chủ đầu tư, nhà thầu đã tập kết vật tư, đặt mua vật tư để thực hiện gói thầu trên. Tuy nhiên, sau đó Chủ đầu tư thông báo là hủy kết quả thầu do hồ sơ dự thầu của nhà thầu thiếu một số tài liệu (cụ thế thiếu là: trong hồ sơ mời thầu yêu cầu 7 cán bộ chchốt và 10 công nhân kỹ thuật khi tải hồ sơ lên mạng trong quá trình nén file, nhà thầu đã tải thiếu bằng cấp của 10 công nhân kỹ thuật nhưng vn có kê khai nhân sự theo form quy định trên hệ thống và trong thời gian 3 ngày kể từ ngày đóng thầu do hồ sơ scan hơi mờ nên nhà thầu có gửi mail cho Chủ đầu tư bản scan hồ sơ dự thầu (bản scan chưa nén file) có đầy đủ bằng cấp và kinh nghiệm của cán bộ chủ chốt và công nhân kỹ thuật). Vì vậy, công ty X cho rằng trước khi tiến hành thương thảo hợp đồng thì Chủ đầu tư đã thực hiện xong khâu đánh giá hồ sơ dự thầu của nhà thầu và sau khi thương thảo thành công thì xem như hồ sơ dự thầu cúa nhà thầu đã hợp lệ và đáp ứng yêu cầu của HSMT. Nhận thấy việc hủy thầu của Chủ đầu tư sẽ tổn thất cho nhà thầu do nhà thầu đã chuẩn bị, tập kết, đặt mua vật tư, nhân lực vì vậy công ty không đồng ý với kết quả hủy thầu của Chủ đầu tư. Doanh nghiệp X mong muốn Bộ KHĐT giải đáp giúp nhà thầu hướng giải quyết trong trường hợp này và trong trường hợp này nhà thầu có được quyền kiến nghị và khiếu kiện Chủ đầu tư bồi thường thiệt hại không?

Chủ đầu tư A có câu hỏi như sau: Hiện nay Chủ đầu tư A có một số Công ty đang nợ tiền và không chịu trả mặc dù đã có rất nhiều văn bản yêu cầu và đang làm các thủ tục để khởi kiện các Công ty nợ tiền ra Tòa án để giải quyết. Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 5 tư cách hợp lệ của nhà thầu, nhà đầu tư, cùa luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 quy định như sau: “Không đang trong quá trình giải thể; không bị kết luật đang lâm vào tình trạng phá sản hoặc nợ không có khả năng chi trả theo quy định của pháp luật’’. Như vậy khi lập hồ sơ mời thầu, Chủ đầu tư A có thể ghi rõ nội dung không cho phép các Công ty đang nợ nêu trên tham gia gói thầu cùa Chủ đầu tư A hay không? Việc không cho phép các Công ty đang nợ Chủ đầu tư A tham gia các gói thầu cùa Chủ đầu tư A có vi phạm pháp luật về hành vi gây cản trở các Nhà thầu tham gia dự thầu, ảnh hưởng đến cạnh tranh trong đấu thầu hay không?

Công ty A chuẩn bị đệ trình HSDT cho gói thầu mua sắm hàng hóa. Tuy nhiên trong quá trình chuẩn bị HSDT, nhà thầu thấy rằng theo Thông báo mời thầu đăng trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia thì thời gian thực hiện hợp đồng là 60 ngày. Tuy nhiên, trong Chương V-Phạm vi cung cấp thì Bên mời thầu ghi tiến độ thực hiện là 70 ngày. Công ty A muốn hỏi:

  • Nhà thầu sẽ đề xuất thời gian thực hiện hợp đồng bao nhiêu ngày là hợp lệ?
  • Trong trường hợp này, Bên mời thầu sẽ đánh giá HSDT theo thời gian thực hiện hợp đồng là 60 ngày hay 70 ngày và căn cứ vào HSMT hay Thông báo mời thầu?

Ban QLDA X sau khi lựa chọn nhà thầu cho một gói thầu mua sắm hàng hóa và đã tiến hành ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng, ban QLDA X đã nhận được đề nghị thay đổi xuất xứ hàng hóa đã cung cấp với lý do cụ thể như sau: Mặt hàng thứ nhất: lí do nhà thầu đưa ra là Model cũ không được sản xuất nữa - nhà thầu đề nghị thay thế bằng Model khác của cùng hãng sản xuất nhưng có nước xuất xứ khác so với Model đã chào thầu. Mặt hàng thứ hai: lí do nhà thầu đưa ra là nhà sản xuất bị phá sản - nhà thầu đề nghị thay thế bằng Model khác của một nhà sản xuất khác đồng thời giữ nguyên nước xuất xứ của sản phẩm như đã chào thầu. Bên cạnh đó, Nhà thầu cũng cam kết không thay đổi đơn giá 2 mặt hàng này so với giá đã chào thầu và đã cung cấp cho Ban QLDA bằng chứng liên quan đến việc ngừng sản xuất Model cũ và việc nhà sản xuất bị phá sản. Ban QLDA X muốn hỏi chuyên gia việc thay đổi xuất xứ nói trên có vi phạm luật đấu thầu?

Một công ty A trong quá trình đệ trình HSDT cho một gói thầu mua sắm hàng hóa đã bị Bên mời thầu từ chối mở HSDT với lý do là HSDT không được niêm phong theo quy định của HSMT. Bức xúc trước lý do từ chối mở HSDT của Bên mời thầu, Công ty đã gửi đơn kiến nghị đến Chủ đầu tư và Cục Quản lý đấu thầu để đề nghị Bên mời thầu tiếp tục xem xét đánh giá HSDT của mình do trong HSMT không có quy định loại HSDT vì HSDT không được niêm phong theo hướng dẫn của HSMT.

Đối với gói thầu sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, chủ đầu tư có thể ứng vốn nhiều lần cho nhà thầu không? Mức tạm ứng tối đa, tối thiểu là bao nhiêu?

Tình huống: Công ty của ông Khắc Thông (ở Bình Thuận) là nhà đầu tư 1 dự án xây dựng – chuyển giao (BT). Ông Thông hỏi, công ty cần áp dụng Luật Đấu thầu, Nghị định số 63/2014/NĐ-CP để lựa chọn nhà thầu hay được chỉ định thầu?