Showing 81–100 of 451 results

Liên quan đến việc bảo đảm cạnh tranh giữa các công ty trong cùng đơn vị, Công ty A có câu hỏi như sau: Công ty A chuẩn bị tham dự gói thầu xây lắp X sử dụng vốn ngân sách nhà nước do bên mời thầu là Công ty B mời thầu và đơn vị tư vấn thiết kế cho gói thầu X là Công ty C. Trong đó, cả 3 công ty A, B, C đều là công ty con và có vốn góp chi phối của một Tập đoàn. Hỏi trong trường hợp này, công ty A có đảm bảo cạnh tranh trong đấu thầu không?

Một bên mời thầu đang tổ chức lựa chọn nhà thầu cho gói thầu xây lắp thực hiện theo hình thức chào hàng cạnh tranh thông thường với phương thức 01 giai đoạn 01 túi hồ sơ có câu hỏi như sau: Sau khi đánh giá các hồ sơ đề xuất của các nhà thầu tham gia dự thầu, bên mời thầu đã tiến hành gửi công văn mời nhà thầu có HSĐX chào hàng hợp lệ, đáp ứng yêu cầu về năng lực kinh nghiệm, yêu cầu về kỹ thuật có giá dự thầu thấp nhất sau khi sửa lỗi, hiệu chỉnh các sai lệch và không vượt giá gói thầu đến thương thảo hợp đồng. Văn bản trên cũng đồng thời gửi đến Chủ đầu tư và các nhà thầu có hồ sơ dự thầu không đáp ứng phần tư cách hợp lệ, năng lực kinh nghiệm và kỹ thuật được biết lý do các nhà thầu không đáp ứng. Với việc thông báo mời nhà thầu đến thương thảo họp đồng, một cơ quan kiểm tra đã nhận xét, đánh giá: Công văn này có các nội dung Vi phạm các hành vi bị cấm trong đấu thầu quy định tại điểm b khoản 7 điểu 89 Luật Đấu thấu số 43/2013/QH13 “Tiết lộ, tiếp nhận những tài liệu thông tin ... ”.  Bên mời thầu muốn hỏi việc kết luận như vậy có phù hợp với quy định của pháp luật.

Kiến nghị của ông Lê Ngọc Đoàn, Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang (theo Công văn số 7275/VPCP-ĐMDN ngày 15/8/2019 của Văn phòng Chính phủ).
Tôi tên Lê Ngọc Đoàn công tác tại Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng huyện An Minh, nay gửi đến Cổng Thông tin điện tử Chính phủ xem xét tình huống trong đấu thầu như sau: Gói thầu A (công trình giao thông nông thôn) được tổ chức đấu thầu rộng rãi trong nước với hình thức không qua mạng. Trong hồ sơ mời thầu có mời tiêu chuẩn đánh giá kinh nghiệm cụ thể trong quản lý và thực hiện hợp đồng xây lắp như sau: Kinh nghiệm cụ thể trong quản lý và thực hiện hợp đồng xây lắp: Số lượng tối thiểu các hợp đồng tương tự theo mô tả dưới đây mà nhà thầu đã hoàn thành toàn bộ hoặc hoàn thành phần lớn với tư cách là nhà thầu chính (độc lập hoặc thành viên liên danh) hoặc nhà thầu phụ trong vòng 03 năm (2016, 2017, 2018) trở lại đây (tính đến thời điểm đóng thầu): (i) số lượng hợp đồng là 3, mỗi hợp đồng có giá trị tối thiểu là 4,7 tỷ đồng (VNĐ) hoặc (ii) số lượng hợp đồng ít hơn hoặc bằng 3, mỗi hợp đồng có giá trị tối thiểu là 4,7 tỷ đồng (VNĐ) và tổng giá trị tất cả các hợp đồng ≥ 14,1 tỷ đồng (VNĐ) Khi tham dự thầu, nhà thầu X tham dự các hợp đồng thi công công trình giao thông nông thôn như sau: + Hợp đồng 1 có giá trị 4,3 tỷ đồng; + Hợp đồng 2 có giá trị 3,9 tỷ đồng; + Hợp đồng 3 có giá trị 7,4 tỷ đồng; Tổ chuyên gia đã đánh giá nhà thầu X đáp ứng yêu cầu của hồ sơ mời thầu (có 01 hợp đồng > 4,7 tỷ đồng và tổng các hợp đồng > 14,1 tỷ đồng). Vậy, xin hỏi việc tổ chuyên gia đánh giá nhà thầu X đáp ứng yêu cầu về kinh nghiệm cụ thể trong quản lý và thực hiện hợp đồng xây lắp như trên có hợp lệ hay không? Kính mong quý cơ quan xem xét và giải đáp tình huống nêu trên.

Bên mời thầu X đang đánh giá hồ sơ dự thầu cho gói thầu xây lắp áp dụng phương thức đấu thầu 01 giai đoạn 01 túi hồ sơ, có câu hỏi như sau: Căn cứ vào hướng dẫn tại Mục 17 Chương I Mẫu hồ sơ mời thầu xây lắp số 01 ban hành kèm theo Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT ngày 06/5/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc nhà thầu phải chuẩn bị sẵn sàng các tài liệu gốc để phục vụ việc xác minh khi có yêu cầu của bên mời thầu, chúng tôi đã yêu cầu nhà thầu cung cấp các bản gốc hợp đồng, hóa đơn thanh toán các hợp đồng tương tự để xác minh. Tuy nhiên sau khi yêu cầu làm rõ 02 lần nhà thầu vẫn không cung cấp theo yêu cầu. Hỏi trong trường hợp này bên mời thầu có thể kết luận nhà thầu có gian lận trong kê khai hồ sơ dự thầu và loại hồ sơ dự thầu không?

Bên mời thầu X trong quá trình đánh giá HSDT gói thầu xây lắp có tình huống như sau: Theo yêu cầu của HSMT nhà thầu phải đảm năng lực hoạt động xây dựng theo quy định của Nghị định 59/2015/NĐ-CP, cụ thể là nhà thầu phải có chứng chỉ năng lực thi công công trình hạng II do Bộ Xây dựng cấp. Theo đó, khi kiểm tra HSDT bên mời thầu thấy nhà thầu A có đệ trình chứng chỉ năng lực bản photo nên đã yêu cầu nhà thầu cung cấp bản gốc để đối chiếu. Tuy nhiên sau khi yêu cầu 02 lần nhà thầu vẫn không phản hồi theo yêu cầu. Hỏi trong trường hợp này, bên mời thầu có được phép loại HSDT của nhà thầu và đánh giá nhà thầu gian lận trong đấu thầu không?

Một bên mời thầu đang đánh giá HSDT cho gói thầu qua mạng có tình huống như sau: Trong khi xem xét E-HSDT của nhà thầu X, tổ xét thầu nhận thấy nhà thầu có kèm theo file scan Thư bảo lãnh dự thầu của ngân hàng do người ký thư bảo lãnh là ông A Phó Giám đốc ngân hàng. Nhà thầu cũng kèm theo file scan Giấy ủy quyền đề tên người ủy quyền là ông B Giám đốc ngân hàng với nội dung ủy quyền cho ông A Phó Giám đốc ngân hàng được ký chứng thư bảo lãnh nhưng tại chữ ký Giấy ủy quyền này lại đề tên của C (người thứ ba) với chức vụ là Phó giám đổc ngân hàng. Sau đó khi đóng thầu, ngân hàng phát hành bảo lãnh đã có văn bản gửi đến Bên mời thầu xác nhận vê nội dung sai sót nêu trên là lỗi do ngân hàng và đề nghị Bên mời thầu xem xét. Bên mời thầu muốn hỏi trong trường hợp nói trên bảo lãnh dự thầu có được đánh giá là hợp lệ không?

Tình huống: Công ty Cổ phần A là doanh nghiệp cổ phần hoá từ Doanh nghiệp nhà nước. Cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước là UBND tỉnh. UBND tỉnh có Quyết định cử người làm đại diện chủ sở hữu nhà nước tại Công ty A chiếm trên 50% vốn điều lệ của công ty A. Vậy xin hỏi: Công ty A tham gia đấu thầu các dự án PPP, dự án đầu tư có sử dụng đất do người đứng đầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Chủ tịch UBND tỉnh) không là cha mẹ đẻ, cha mẹ vợ hoặc cha mẹ chồng, vợ hoặc chồng, con đẻ, con nuôi, con dâu, con rể, anh chị em của người đại diện theo pháp luật của nhà đầu tư (Tổng Giám đốc công ty A) là phù hợp với các quy định đảm bảo cạnh tranh trong đấu thầu và không thuộc hành vi bị cấm trong đấu thầu trên hay không?

Theo phản ánh, ngày 16/12/2019 Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành Thông tư số 11/2019/TT-BKHĐT Quy định chi tiết việc cung cấp, đăng tải thông tin về đấu thầu, lộ trình áp dụng lựa chọn nhà thầu qua mạng và quản lý, sử dụng giá trị bảo đảm dự thầu, bảo đảm thực hiện hợp đồng không được hoàn trả, tại khoản 2  Điều 13 Thông tư 11/2019/TT-BKHĐT có nêu:

"2. Đối với lựa chọn nhà thầu, trong quá trình đăng tải thông báo mời thầu, thông báo mời chào hàng, bên mời thầu phải đính kèm các tài liệu sau đây:

a) Quyết định phê duyệt hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu, yêu cầu báo giá; b) Hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu, yêu cầu báo giá được phê duyệt".

Để đánh giá tính phù hợp của quy định này, xét với quy định tại Luật Đấu thầu và Nghị định số 63/2014/NĐ-CP thì:

Tại khoản d Điều 7 Nghị định 63/2014/NĐ-CP: Bên mời thầu có trách nhiệm cung cấp các thông tin quy định tại các Điểm b, c, d và đ Khoản 1 Điều 8 của Luật Đấu thầu và các thông tin liên quan đến việc thay đổi thời điểm đóng thầu (nếu có) lên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia hoặc cho Báo Đấu thầu.

Theo đó, đối với Điểm b, c, d và đ Khoản 1 Điều 8 của Luật Đấu thầu: b) Thông báo mời quan tâm, thông báo mời sơ tuyển; c) Thông báo mời chào hàng, thông báo mời thầu; d) Danh sách ngắn; đ) Kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư.

Nếu xét theo quy định tại Luật Đấu thầu và Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, khi đăng tải thông báo mời thầu, thông báo mời chào hàng, bên mời thầu chỉ đăng tải thông tin "thông báo mời thầu, thông báo mời chào hàng" chứ không phải đính kèm "hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu, yêu cầu báo giá".

Hai nội dung trong ngoặc kép nêu trên là hai khái niệm (nội dung) khác nhau, thông báo là thông báo có việc lựa chọn nhà thầu. Còn tài liệu đính kèm không phải là thông tin cần thông báo, bởi các thông tin cần đăng tải đã được thể hiện tại "thông báo mời thầu, thông báo mời chào hàng".

Tại Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, Chính phủ không giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn như vậy, đồng thời, quy định trên cũng trái với Luật Đấu thầu. Các quy định yêu cầu đính kèm các tài liệu khác như Quyết định phê duyệt cũng tương tự là không phù hợp.

Do đó, đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư bãi bỏ các quy định tại Thông tư số 11/2019/TT-BKHĐT không được Chính phủ giao tại Nghị định số 63/2014/NĐ-CP và trái với Luật Đấu thầu.

Một công ty chuẩn bị tham dự gói thầu xây lắp trong vai trò thành viên liên danh có câu hỏi như sau: Công ty tôi liên danh với một công ty khác tham dự một gói thầu và ký thỏa thuận liên danh là 30-70 đã thỏa mãn được tất cả các điều kiện liên danh nhưng về phần máy móc, thiết bị phục vụ thi công nêu ở trong hồ sơ dự thầu, khi tham dự thầu 2 công ty chúng tôi chỉ đưa ra hóa đơn chứng từ của một công ty chứng minh đầy đủ phân thiết bị đó. Vậy xin hỏi việc cung cấp thiết bị cho liên danh như vậy có phù hợp?

Một số chủ đầu tư có thắc mắc liên quan đến việc cung cấp thông tin đấu thầu cho báo chí như sau: Theo quy định tại Điều 74 và Điều 75 Luât Đấu thầu quy định trách nhiệm của chủ đầu tư, bên mời thầu là bảo mật các tài liệu liên quan trong quá trình lựa chon nhà thầu và cung cấp thông tin, tài liệu liên quan theo yêu cầu cùa người có thẩm quyền, cơ quan thanh tra, kiểm tra, cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động đấu thầu. Do đó, chủ đầu tư, bên mời thầu cho rằng hồ sơ dự thầu của nhà thầu là tài liệu bảo mật và chỉ cung cấp cho người có thẩm quyền, cơ quan thanh tra, kiểm tra, cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động đấu thầu. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 25 Luật báo chí 2016 lại quy định, nhà báo có quyền được đến các cơ quan, tổ chức để hoạt động nghiệp vụ báo chí. Khi đến làm việc, nhà báo chỉ cần xuất trình thẻ nhà báo. Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm cung cấp cho nhà báo những tư liệu, tài liệu không thuộc phạm vi bí mật nhà nước, bí mật đời tư cùa cá nhân và bí mật khác theo quy định của pháp luật, nên sau khi có quyết định kết quả lựa chọn nhà thầu đăng tải trên hệ thống đấu thầu quốc gia, trong khi các nhà thầu tham dự thầu không có kiến nghị gì thì có báo đã cử nhà báo đến yêu cầu chúng tôi cung cấp hồ sơ dự thầu cùa các nhà thầu tham dự với lý do cần làm rõ một số nghi ngờ về quá trình lựa chọn nhà thầu. Vậy việc yêu cầu cung cấp hồ sơ dự thầu như vậy có phù hợp với các quy định hiện hành không?

Một nhà thầu liên danh trong quá trình đệ trình E-HSDT cho gói thầu mua sắm hàng hóa có sai sót như sau: Trong phần thỏa thuận Liên danh, do sơ suất hai Công ty liên danh đã không hiển thị rõ Công ty nào được thay mặt Liên danh sử dụng chữ ký số điện tử để đấu thầu qua mạng như yêu cầu của E-HSMT. Liên danh trên muốn hỏi việc thiếu thể hiện Công ty nào là đại diện Liên danh nhà thầu được sử dụng chữ ký số trong thỏa thuận Liên danh có vi phạm qui định đấu thầu qua mạng hay không? Việc thiếu hiển thị này có bị nằm trong điều kiện bắt buộc loại bỏ E-HSDT của Liên danh hay không?

Công ty X là đơn vị tư vấn đấu thầu cho gói thầu sơ tuyển lựa chọn nhà đầu tư dự án đầu tư có sử dụng đất, đã có câu hỏi như sau: Trong quá trình đánh giá hồ sơ dự sơ tuyển (HSDST), do thiếu các tài liệu chứng minh năng lực kinh nghiệm nên bên mời thầu yêu cầu nhà đầu tư làm rõ các nội dung trong HSDST đã nộp. Tuy nhiên, để có đủ cơ sở để đánh giá HSDST bên mời thầu đã phải thực hiện làm rõ nhiều lần vì mỗi lần làm rõ Nhà đầu tư đều không cung cấp đủ các hồ sơ theo yêu cầu đồng thời pháp luật về đấu thầu cũng không quy định số lần làm rõ. Việc làm rõ nhiều lần dẫn đến thời gian đánh giá HSDST nếu tính cả thời gian làm rõ kéo dài hơn so với thời gian quy định tại Nghị định số 30/2015/NĐ-CP. Công ty X muốn hỏi  thời gian đánh giá HSDST theo quy định của pháp luật về đấu thầu có bao gồm thời gian làm rõ HSDST hay không?

Một chủ đầu tư lần đầu tổ chức công tác lựa chọn nhà thầu cho một dự án. Tuy nhiên, do chưa có kinh nghiệm nên đang muốn tìm đơn vị tư vấn để hỗ trợ cho mình về công tác lựa chọn nhà thầu. Đơn vị chủ đầu tư muốn được tư vấn việc có được phép ký hợp đồng với tư vấn đấu thầu để giao cho đơn vị tư vấn thực hiện toàn bộ các trách nhiệm của bên mời thầu cũng như hỗ trợ cho chủ đầu tư trong quá trình quản lý thực hiện hợp đồng theo quy định của pháp luật chuyên ngành hay chủ đầu tư chỉ được phép ký hợp đồng thuê tư vấn đấu thầu làm một vài công việc của bên mòi thầu như: lập hồ sơ mời thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu còn các công việc khác thì chủ đầu tư, bên mời thầu phải thực hiện.

Một bên mời thầu thuộc Bộ Quốc phòng gặp tình huống như sau: Trong quá trình thực hiện gói thầu rà phá bom mìn có giá trị gói thầu không quá 5 tỷ đồng được phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu bằng hình thức chỉ định thầu theo điểm đ khoản 1 Điều 22 Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 ngày 26/11/2013: Chỉ định thầu đối với nhà thầu được áp dụng trong các trường hợp sau đây “Gói thầu rà phá bom, mìn, vật nổ để chuẩn bị mặt bằng thi công xây dựng công trình”. Tuy nhiên, sau khi phát hành HSYC để thực hiện chỉ định thầu thì do tính chất chuyên ngành và giao nhiệm vụ của các đơn vị Bộ Quốc phòng nên không có đơn vị nào thuộc Bộ Quốc phòng là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ mà chỉ có các đơn vị không phải là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ mới đủ năng lực thực hiện. Vì vậy, bên mời thầu trên muốn hỏi chúng tôi về việc chỉ định thầu cho đơn vị nào trong trường hợp nói trên.

Công ty A có tham gia đấu thầu 01 gói thầu: - Hình thức đấu thầu: Đấu thầu rộng rãi trong nước Văn bản thỏa thuận liên danh được ký trước ngày ký văn bản ủy quyền của Giám đốc công ty A. Văn bản thỏa thuận liên danh giữa các nhà thầu ghi ngày ký là 19/5/2015, trước 1 ngày so với ngày ủy quyền của Giám đốc công ty A là ngày 20/5/2015. Biên bản thỏa thuận liên danh giữa 3 nhà thầu không ghi số, ngày, tháng của văn bản ủy quyền. Sau khi nộp hồ sơ dự thầu Nhà thầu đã phát hiện sai sót trong hồ sơ của mình. Ngày 22/6/2015 Nhà thầu đã gửi văn bản làm rõ hồ sơ dự thầu đến Chủ đầu tư đồng thời bổ sung các thông tin gồm: Văn bản thỏa thuận liên danh mới đã hiệu chỉnh về ngày ký là ngày 20/5/2015 và bổ sung số, ngày, tháng của giấy ủy quyền mà không thay đổi bất kỳ thông tin nào khác về các thành viên cũng như nội dung liên danh. Đến thời điểm hiện tại gói thầu này vẫn đang trong quá trình chấm thầu và Chủ đầu tư chưa có thông báo về kết quả đấu thầu. Với tình huống như trên của Nhà thầu, Công ty A xin được hỏi: - Ngày phát hành hồ sơ mời thầu: Ngày 22 tháng 4 năm 2015. - Ngày đóng thầu: Ngày 26 tháng 5 năm 2015. - Tư cách dự thầu: Nhà thầu liên danh gồm 03 công ty, trong đó Công ty A là thành viên đứng đầu liên danh. Và để tham gia gói thầu này, Giám đốc Công ty A đã có văn bản ủy quyền cho Giám đốc mảng Công nghệ thông tin ký các văn bản liên quan trong quá trình chuẩn bị hồ sơ dự thầu. Khi xây dựng hồ sơ dự thầu, Nhà thầu đã gửi Hồ sơ chứng minh tư cách họp lệ của mình theo đúng yêu cầu của Hồ sơ mời thầu, trong đó bao gồm Văn bản thỏa thuận liên danh của 03 công ty và Văn bản ủy quyền của Giám đốc Công ty A, Do lỗi trong việc soạn thảo văn bản nên đã xảy ra một số số sai sót như sau: - Nhà thầu có được phép bổ sung các văn bản làm rõ hồ sơ dự thầu như trên hay không - Các văn bản này có được coi là một phần của hồ sơ dự thầu và được chủ đầu tư chấp thuận hay không - Sau khi bổ sung, làm rõ hồ sơ dự thầu thì nhà thầu có được coi Ịà có tư cách hợp lệ để tham gia đấu thầu hay không.

Theo quy định tại điểm b, khoản 3, Điều 19 của Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 có quy định Việc thương thảo hợp đồng không được làm thay đổi đơn giá dự thầu của nhà thầu sau khi sửa lỗi, hiệu chỉnh sai lệch và trừ đi giá trị giảm giá (nếu có)”. Theo quy định như vậy có nghĩa rằng trong quá trình thương thảo hợp đồng sẽ không thương thảo về giá, không được giảm giá. Việc Chủ đầu tư hiểu như vậy có, đúng hay không? Nếu Chủ đầu tư thương thảo, hợp đồng với nhà thầu dẫn đến giảm giá của một số thiết bị chào thầu hoặc quá trình đàm phán dẫn đến giá ký hợp đồng thấp hơn giá trúng thầu, việc làm đó có phù hợp hay không?

Một đơn vị thẩm định kết quả lựa chọn nhà thầu cho gói thầu xây lắp có tình huống như sau: Sau khi xem xét kết quả đánh giá hồ sơ dự thầu do Tổ chuyên gia đấu thầu thực hiện, đơn vị thẩm định nhận thấy, Tổ chuyên gia đấu thầu đã yêu cầu nhà thầu X làm rõ các hợp đồng tương tự do nhà thầu kê khai trong hồ sơ dự thầu. Tuy nhiên, do các hợp đồng này không có tính chất tương tự với gói thầu đang xét nên đã đánh giá và kết luận nhà thầu X không đáp ứng yêu cầu về kinh nghiệm thực hiện hợp đồng tương tự. Bộ phận thẩm định đang chia ra 02 quan điểm khác nhau, cụ thể như sau:

  1. Tổ chuyên gia đấu thầu đã đánh giá đúng hồ sơ dự thầu của nhà thầu X vì đã làm rõ nhưng nhà thầu X không đáp ứng yêu cầu.
  2. Tổ chuyên gia cần làm rõ thêm ngoài các hợp đồng nhà thầu X kê khai thì còn có hợp đồng khác tương tự để nhà thầu X bổ sung cho đáp ứng yêu cầu của hồ sơ mời thầu.
Đơn vị thẩm định trên đề nghị chúng tôi hỗ trợ tư vấn cho phù hợp với quy định pháp luật.

Một nhà thầu tham dự gói thầu mua sắm hàng hóa có đề nghị chúng tôi tư vấn về ưu đãi trong trường hợp như sau: Hồ sơ dự thầu của nhà thầu thiếu bảng kê ưu đãi hàng hóa trong nước. Tuy nhiên nhà thầu đã ghi rõ xuất xứ hàng hóa cung cấp sản xuất tại Việt Nam và có bảng cam kết nguồn nguyên liệu chính để sản xuất hàng hóa là của doanh nghiệp trong nước. Trường hợp nhà thầu không có bảng kê ưu đãi hàng trong nước nhưng đã ghi rõ là hàng được xuất xứ, sản xuất trong nước và có bản cam kết của nhà sản xuất cung cấp nguyên vật liệu chính là hàng trong nước với tỉ lệ > 25% thì có được tính là thầu được ưu đãi không? Trường hợp nhà thầu gửi công văn và bổ sung bảng kê ưu đãi trong nước trong vòng 3 ngày làm việc kể từ ngày đóng thầu thì có hợp lệ và được tính ưu đãi theo quy định của Luật đấu thầu về việc ưu đãi hàng hóa sản xuất trong nước hay không?

Liên quan đến việc đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của nhà thầu, một bên mời thầu đã yêu cầu chúng tôi giải đáp một số câu hỏi sau: Khi xây dựng hồ sơ mời thầu (HSMT) có được đưa tiêu chí nhà thầu phải hoàn thành nghĩa vụ nộp BHXH, BHYT, BHTN khi xét điều kiện dự thầu của nhà thầu không? Việc đưa tiêu chí này vào HSMT có bị coi là hạn chế sự tham gia của nhà thầu nhằm tạo lợi thế cho một hoặc một số nhà thầu gây ra sự cạnh tranh không bình đẳng trong đấu thầu không? Nếu bên mời thầu không đưa tiêu chí này vào HSMT thì có vi phạm Luật Đấu thầu không? Trong trường hợp HSMT không đưa tiêu chí nợ đọng BHXH làm tiêu chí xét thầu và Nhà thầu nợ BHXH thì có bị coi là không đáp ứng Tư cách hơp lệ của nhà thầu theo quy định tại Điều 5 Luật Đấu thầu 2013 không? và nhà thầu trúng thầu có bị hủy kết quả thầu không?

Ông Trần Văn Quang (Hà Nội) đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn trường hợp như sau: Công ty A và công ty B liên danh tham gia đấu thầu gọi là liên danh nhà thầu công ty A và công ty B để tham gia đấu thầu gói thầu mua sắm hàng hóa do công ty DX làm chủ đầu tư. Trong thỏa thuận liên danh công ty A phụ trách 20% giá trị gói thầu, công ty B phụ trách 80% trong thỏa thuận quy định theo mẫu, ngoài ra còn có quy định thành viên đứng đầu liên danh công ty A "chịu trách nhiệm về tài chính để thực hiện gói thầu, đại diện liên danh xuất hóa đơn GTGT cho toàn bộ gói thầu và nhận toàn bộ tiền thanh toán từ chủ đầu tư để phân phối lại lợi nhuận cho các thành viên trong liên danh". Quá trình thực hiện công ty A ký hợp đồng kinh tế với công ty B toàn bộ 80% phần công việc công ty B phụ trách trong liên danh và công ty A cấp vào chủ đầu tư công ty DX. Ông Quang hỏi, cách làm của công ty A và công ty B có vi phạm quy định của luật không?