Showing 181–200 of 440 results

Theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu, nhà thầu phải nộp 01 bộ hàng mẫu để bên mời thầu tiến hành kiểm tra, đánh giá hàng hóa thực tế. Mặc dù, trong Hồ sơ dự thầu nhà thầu đã chào đầy đủ danh mục hàng hóa với cụ thể các chi tiết đáp ứng đúng như yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Tuy nhiên, khi tiến hành đánh giá hàng mẫu chúng tôi phát hiện có 02/04 nhà thầu tham gia đấu thầu nộp đủ bộ hàng mẫu nhưng thiếu một hoặc một số chi tiết trong bộ hàng mẫu. Chúng tôi xin hỏi trong trường hợp này bên mời thầu có thể yêu cầu nhà thầu làm rõ (bổ sung chi tiết thiếu của hàng mẫu) để tiến hành đánh giá hàng mẫu được không? việc bổ sung hàng mẫu có được xem là là thay đổi bản chất hồ sơ dự thầu hay không?

Trường A là đơn vị sự nghiệp trực thuộc ngân hàng B, hoạt động theo loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Hiện nay, Trường A đang triển khai một số chương trình đào tạo và phải thuê giảng viên. Trong quá trình thực hiện, Trường A còn vướng mắc một số thủ tục lựa chọn giảng viên cho các khóa đào tạo, vì vậy, Trường A xin ý kiến tư vấn nội dung sau: Việc thuê giảng viên cho các chương trình đào tạo của Trường A sử dụng 100% nguồn kinh phí của ngân hàng A được hạch toán vào chi phí có được trực tiếp ký hợp đồng lựa chọn giảng viên hay bắt buộc phải thực hiện đấu thầu theo quy định của Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 và các văn bản pháp luật về đấu thầu?

Trung tâm Tư vấn A trực thuộc Sở B, có con dấu và tài khoản riêng, với kinh phí hoạt động 100% tự chủ; Chức năng của Trung tâm là Tư vấn kỹ thuật cho các Chủ đầu tư và cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền về quản lý kỹ thuật, mỹ thuật, chất lượng, tiến độ, chi phí đầu tư xây dựng và an toàn, bảo vệ môi trường các dự án đầu tư xây dựng giao thông. Trung tâm A xin được hỏi chuyên gia một số nội dung như sau: Trong trường hợp kế hoạch đấu thầu các dự án do Sở B làm chủ đầu tư, các gói thầu tư vấn (có giá trị > 500.000.000 đồng) được duyệt tự thực hiện và Sở B giao cho Trung tâm A thực hiện thì có phù hợp với Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 và Nghị định số 63/2014/NĐ-CP không?  

Một chủ đầu tư có văn bản hỏi về tình huống như sau: Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh về việc không nhận hồ sơ thầu, chỉ thầu hoặc không cho tham gia đấu thầu, chỉ định thầu với các doanh nghiệp còn nợ tiền thuế, nên trong hồ sơ mời thầu E-HSMT có nội dung đánh giá tiêu chuẩn về năng lực và kinh nghiệm, điều kiện là đến trước thời điểm đóng thầu đã hoàn thành nghĩa vụ thuế nhà nước theo quy định và yêu cầu nộp báo cáo thuế. Theo khoản 5 Điều 15 của Thông tư 04/2017/TT-BKHĐT ngày 15/11/2017 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc quy định chi tiết về lựa chọn nhà thầu qua hệ thống mạng đấu thầu Quốc gia thì phần năng lực và kinh nghiệm nhà thầu không phải đính kèm tài liệu chứng minh, nhưng phải kê khai đầy đủ tài liệu về năng lực và kinh nghiệm trong E-HSDT. Sau khi xem xét E-HSDT, Tổ chuyên gia đấu thầu phát hiện có 01 nhà thầu không kê khai tình trạng thực hiện nghĩa vụ thuế theo quy định của E-HSMT. Do đó, bên mời thầu trong quá trình đánh giá đã yêu cầu nhà thầu tham dự bổ sung thêm giấy xác nhận đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế. Sau khi nhà thầu đệ trình xác nhận nghĩa vụ thuế, Tổ Chuyên gia đấu thầu đã đánh giá nhà thầu đó đáp ứng năng lực và kinh nghiệm theo yêu cầu của E-HSMT. Chủ đầu tư trên muốn hỏi việc bên mời thầu xử lý tình huống trên có đảm bảo quy định của Luật đấu thầu và Thông tư 04/2017/TT-BKHĐT ngày 15/11/2017 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc quy định chi tiết về lựa chọn nhà thầu qua hệ thống mạng đấu thầu Quốc gia không?

Một nhà thầu đã tham gia đấu thầu qua mạng có câu hỏi như sau Trước thời điểm đóng thầu, nhà thầu tiến hành gửi các dữ liệu file scan đính kèm theo E-HSDT với các nội dung: Chứng thư bảo lãnh dự thầu, Cam kết tài chính cho gói thầu “bằng chứng thư cam kết tín dụng của Ngân hàng”, Tiến độ thi công chi tiết, các hợp đồng nguyên tắc vật liệu và 01 tệp chứa biện pháp thi công gồm có bản vẽ và thuyết minh kỹ thuật thi công. Được biết, khi nhà thầu gửi và chương trình tiến hành mã hóa dữ liệu của nhà thầu và thông báo rằng E- HSDT đã gửi thành công. Sau thời điểm đóng thầu, Bên mời thầu tiến hành kiểm tra các thông tin của nhà thầu tham dự và chỉ có 01 nhà thầu tham dự là nhà thầu “Công ty X”, các thông tin cần thiết như: Giá dự thầu, hiệu lực E-HSDT, tiến độ thi công, bảo lãnh dự thầu và hiệu lực bảo lãnh dự thầu đều đáp ứng theo quy định Hồ sơ mời thầu “E-HSMT”. Riêng phần dữ liệu file Scan đính kèm thiếu nội dung: thuyết minh kỹ thuật thi công và các dữ liệu khác thì Bên mời thầu nhận đủ. Qua tiến hành kiểm tra và xem xét của Bên mời thầu và tổ chuyên gia tư vấn đấu thầu nhận xét nhà thầu không khai báo nội dung về phần kỹ thuật nên không có cơ sở phân tích đánh giá nên kết luận nhà thầu bị loại. Trên cơ sở đó, Nhà thầu có được bổ sung tài liệu thuyết minh kỹ thuật thi công đến Bên mời thầu và tổ chuyên gia tư vấn đấu thầu hay Nhà thầu vẫn bị đánh giá và kết luận như trên

Hiện nay, đơn vị chúng tôi đang đang triên khai tổ chức đấu thầu các gói thầu mua sắm Vật tư cho việc trồng rừng, trong quá trình lựa chọn nhà thầu một gói thầu mua sắm hàng hóa (cây giống lâm nghiệp) chúng tôi gặp phải một số vướng mắc, chưa hiểu rõ quy định về tư cách hợp lệ của Nhà thầu được quy định tại điều 5 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 ngày 26/11/2013, cụ thể như sau. Các nhà thầu tham gia chào hàng cạnh tranh là Hộ kinh doanh cá thể (được đăng ký kinh doanh sản xuất giống cây lâm nghiệp) đáp ứng về năng lực kinh nghiệm, khả năng cung cấp cây giống cũng như chỉ tiêu kỹ thuật và một số yêu cầu khác của hồ sơ mời chào hàng cạnh tranh. Theo Điều 5 của Luật Đấu thầu quy định tư cách hợp lệ của nhà thầu, nhà đầu tư đối với trường hợp là tổ chức, cá nhân, đồng thời được tham gia dự thầu với tư cách độc lập hoặc liên danh, chưa quy định rõ trường hợp đối với hộ kinh doanh cá thể. Vậy, trong trường hợp này, các hộ kinh doanh cá thể trên có được tham gia đấu thầu gói thầu nêu trên không? nhà thầu có được xem là đảm bảo tư cách hợp lệ không?

Theo Thông tư 03/2015/TT-BKHĐT và Thông tư 05/2015/TT-BKHĐT quy định chi tiết lập Hồ sơ mời thầu xây lắp và hàng hóa, trong đó yêu cầu về số lượng tối thiểu hợp đồng tương tự: (i) số lượng hợp đồng là N, mỗi hợp đồng có giá trị tối thiểu là V (N X V = X) hoặc (ii) số lượng hợp đồng ít hơn hoặc bằng N, mỗi hợp đồng có giá trị tối thiểu là V và tổng giá trị tất cả các hợp đồng > X (Ví dụ: N=2, V=100 tỷ VND, X=200 tỷ VND). Nhà thầu tham dự là Liên danh A và B, trong đó A đảm nhận 60%, B đảm nhận 40%. Nếu A có 2 hợp đồng, mỗi hợp đồng có giá trị tối thiểu 60 tỷ VND và B có 2 hợp đồng, mỗi hợp đồng có giá trị tối thiểu 40 tỷ VND được xem đánh giá là đáp ứng năng lực kinh nghiệm hay bắt buộc Nhà thầu Liên danh A hoặc B phải có 1 hợp đồng có giá trị tối thiểu 100 tỷ VND và hợp đồng thứ 2 được xác định bằng cách cộng các hợp đồng có quy mô nhỏ hơn nhưng phải bảo đảm các hợp đồng đó có tính chất tương tự với các hạng mục cơ bản của gói thầu đang xét.

Một chủ đầu tư đang xử lý tình huống trong đấu thầu đối với trường hợp chỉ có 01 nhà thầu đáp ứng kỹ thuật và được xếp hạng thứ nhất có giá đề xuất trúng thầu vượt giá gói thầu. Tuy nhiên, nhà thầu này đang đề xuất thay đổi thay đổi nhà sản xuất so với Hồ sơ dự thầu đã đề xuất. Chủ đầu tư trên đang muốn hỏi việc đề xuất như thế có phù hợp với quy định của pháp luật hay không?

Công ty A tham dự gói thầu mua sắm hàng hóa theo hình thức liên danh cùng với một đơn vị khác. Trong Hồ sơ dự thầu (HSDT) đã nộp cho Bên mời thầu chúng tôi đã cam kết tuân thủ đầy đủ các yêu cầu của Bên mời thầu (bao gồm cả yêu cầu về Bảo đảm dự thầu nêu trong Chương I, Chương II của Hồ sơ mời thầu). Theo thỏa thuận liên danh được lập trong HSDT, Công ty A là thành viên đứng đầu liên danh và được ủy quyền phát hành Bảo đảm dự thầu cho cả liên danh. Tuy nhiên phần bảo đảm dự thầu do Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt nam (BIDV) phát hành (được lập theo mẫu 04 (a) của Thông tư 05/2015/TT-BKHĐT) đã không ghi đầy đủ tên của cả liên danh. Vì vậy chúng tôi muốn hỏi và xin hướng dẫn về việc làm rõ sự khác biệt về Bảo đảm dự thầu trong HSDT để đảm bảo tính hợp lệ Bảo lãnh dự thầu của liên danh sau khi đã nộp HSDT, phía Ngân hàng thực hiện bảo lãnh là Ngân hàng BIDV sẵn sàng phát hành bản tu chỉnh bảo lãnh dự thầu để thể hiện đầy đủ thông tin bảo lãnh cho cả liên danh.

Căn cứ thông từ 03/2015/TT-BKHĐT ngày 06/5/2015 của Bộ Kế hoạch và đầu tư về ban hành mẫu hồ sơ mời thầu xây lắp, Công ty A hỏi: Tại Chương III. Tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu; Mục 2.1. Tiêu chuẩn đánh giá về năng lực tài chính và kinh nghiệm, phần Lịch sử không hoàn thành hợp đồng và phần Báo cáo tài chính có chỉ dẫn số năm lịch sử không hoàn thành và số năm nộp báo cáo tài chính thông thường là từ 3 đến 5 năm. Như vậy hồ sơ mời thầu có được phép quy định cho các nhà thầu có số thời gian thành lập và hoạt động nhỏ hon 3 năm nhưng có các tiêu chí đáp ứng các tiêụ chí của hồ sơ mời thầu, vẫn được xét và lựa chọn trúng thầu có được không?

Công ty Hà Thành ở Cà Mau gặp vướng mắc trong quá trình thực hiện như sau: Theo điểm đ Khoản 6 Điều 89 của Luật Đấu thầu quy định hành vi bị cấm trong đấu thầu như sau: “Nhà thầu tham dự thầu gói thầu mua sắm hàng hoá, xây lắp do mình cung cấp dịch vụ tư vấn trước đó ” và theo điểm b Khoản 2 Điều 6 về bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu quy định: “Nhà thầu tham dự thầu phải độc lập về pháp lý, độc lập về tài chính với các nhà thầu lập, thẩm tra, thẩm định hồ sơ thiết kế, dự toán; lập, thẩm định hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu; đánh giá hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất; thẩm định kết quả lựa chọn nhà thầu gói thầu đó". Hỏi: Như vậy, Nhà thầu đã thực hiện công tác tư vấn lập dự án có được tiếp tục tham gia đấu thầu gói thầu xây lắp trong dự án đó hay không? Do điểm b Khoản 2 Điều 6 không quy định nhà thầu tham dự thầu phải độc lập về pháp lý, độc lập về tài chính với nhà thầu tư vấn lập dự án.

Công ty A lập báo cáo tài chính để quyết toán thuế hàng năm và nộp hồ sơ điện tử lên Cục Thuế (có xác nhận của Cục thuế tỉnh).

Hỏi: Khi công ty download hồ sơ báo cáo tài chính (có thể hiện đã được ký điện tử) để nộp cùng với hồ sơ dự thầu tham dự đấu thầu thì hồ sơ dự thầu này có được xem là hợp lệ hay không hay phải ký và đóng dấu vào bản báo cáo tài chính này thì mới được xem là hồ sơ dự thầu hợp lệ?

Một doanh nghiệp nhà nước X có câu hỏi cho chuyên gia về thực hiện hình thức tự thực hiện trong đấu thầu như sau: Một trong các điều kiện để áp dụng hình thức tự thực hiện theo quy định tại Điều 61 Nghị định 63/2014/NĐ-CP là “...Đơn vị được giao thực hiện gói thầu không được chuyển nhượng khối lượng công việc với tổng sổ tiền từ 10% giá gói thầu trở lên hoặc dưới 10% giá gói thầu nhưng trên 50 tỷ đồng” (Khoản 3). Như vậy, trường hợp Đơn vị được giao tự thực hiện (đáp ứng đầy đủ các điều kiện tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 61 Nghị định 63/2014/NĐ-CP) sử dụng chi phí của gói thầu để mua nguyên, nhiên vật liệu (như xi măng, cát, đá, sắt, thép,...) xây dựng công trình với giá trị mua các nguyên, nhiên vật liệu này chiếm tỷ lệ từ 10% giá gói thầu trở lên thì có vi phạm quy định nêu trên hay không?

Trong phần đánh giá Năng lực nhân sự nhà thầu - Tiêu chuẩn đánh giá về nhân sự chủ chốt, HSMT có nêu:Tối thiểu có 10 Cán bộ thi công lắp đặt thiết bị của gói thầu, trong đó yêu cầu về các chứng chỉ như sau: - Tối thiểu 01 cán bộ có chứng chỉ về hệ thống MCSE hoặc tương đương; Trong HSDT của nhà thầu A có cung cấp Danh sách nhân sự chủ chốt nhưng không có: Tối thiểu 01 cán bộ có chứng chỉ về hệ thống MCSE hoặc tương đương mà chỉ cung cấp chứng chỉ MCTS. Đơn vị tư vấn có văn bản gửi Bên mời thầu đề nghị yêu cầu bổ sung làm rõ HSDT. Nhà thầu có văn bản bổ sung làm rõ HSDT, trong đó có nêu chứng chỉ MCTS là chứng chỉ cao hơn chứng chỉ MCSE nhưng đơn vị tư vấn không chấp nhận mà tiếp tục đề nghị lâm rõ. Sau đó nhà thầu có văn bản bổ sung làm rõ HSDT bằng cách đề xuất bổ sung nhân sự chủ chốt (nhân sự này nằm trong danh sách đóng BHXH của công ty, không nằm trong Danh sách nhân sự chủ chốt trong HSDT) có chứng chỉ MCSE. Độc giả hỏi: Nhà thầu bổ sung danh sách nhân sự chủ chốt tham gia triển khai gói thầu như trên có chấp nhận được không theo quy định tại khoản 1 điều 16, Nghị định 63/2014/NĐ-CP?

Hồ sơ mời thầu quy định: Bảo đảm dự thầu bằng thư bảo lãnh của ngân hàng/ tổ chức tài chính được coi là hợp lệ khi có chữ ký của Giám đốc/Tổng Giám đốc (trường hợp ủy quyền phải có giấy ủy quyền hợp lệ, tuy nhiên, phần đề xuất kỹ thuật trong Hồ sơ dự thầu của một số nhà thầu có bảo đảm dự thầu là thư bảo lãnh ngân hàng nhưng do Phó Tổng giám đốc ngân hàng/Phó Giám đốc chi nhánh ngân hàng/Trưởng phòng giao dịch ký nhưng không kèm theo giấy ủy quyền. Như vậy: Bên mời thầu có được thông báo cho các nhà thầu bổ sung, làm rõ không?

Bên mời thầu đã tổ chức đấu thầu rộng rãi gói thầu mua sắm hàng hóa và dịch vụ. Quá trình đánh giá HSDT của các nhà thầu, Bên mời thầu phát hiện tình huống như sau: a) Trong số các HSDT của nhà thầu tham gia dự thầu, HSDT của Nhà thầu A và B có hàng trăm trang giống hệt nhau kể cả hình thức trình bày (cách dòng, phân trang, đoạn, chấm câu) và nội dung. b) Tên của Nhà thầu A xuất hiện nhiều lần trong HSDT của Nhà thầu B. theo đó, Nhà thầu B phải thực hiện công việc theo quy định của Nhà thầu A hoặc phải báo cáo công việc cho Nhà thầu A. Để đảm bảo công bằng, minh bạch, cạnh tranh, công khai, Bên mời thầu đã mời hai Nhà thầu A và B đến giải thích và làm rõ các nội dung nêu trên, dưới đây là giải thích của các Nhà thầu: (1) Nhà thầu A giải thích: - Chỉ có HSDT của Nhà thầu B giống HSDT của Nhà thầu A và không có chuyện ngược lại; - Sự giống nhau có thể là do trùng hợp ngẫu nhiên, hoặc do Nhà thầu B đã chép của Nhà thầu A qua 1 bên thứ ba nào đó. (2)     Nhà thầu B giải thích: - Nhà thầu B đã mua quy trình nghiệp vụ của Nhà thầu C và thuê Nhà thầu C tư vấn lập HSDT. Luật pháp không cấm điều này; Trên cơ sở tìm hiểu đăng ký kinh doanh của Nhà thầu A và C, xem xét kỹ hợp đồng thuê lập HSDT và chuyển giao bản quyền quy trình nghiệp vụ giữa B và C, Bên mời thầu đã yêu cầu Nhà thầu B giải thích nội dung sau đây:

  • Nhà thầu C là nhà thầu có 100% vốn góp từ Nhà thầu A và các cổ đông sáng lập của Nhà thầu A, tại sao B lại ký hợp đồng lập HSDT với C, một đơn vị quan hệ mật thiết với A và là đối thủ trực tiếp của B trong cuộc thầu này?
  • Pháp luật đấu thầu không cấm việc mua quy trình nghiệp vụ mẫu nhưng HSMT yêu cầu thực hiện công việc theo yêu cầu cụ thể của chủ đầu tư, áp dụng cho một công trình cụ thể, phù hợp năng lực sản xuất riêng của nhà thầu thì tại sao phần trình bày nghiệp vụ này lại giống hệt nhau?
  • Tại sao trong quá trình tác nghiệp khi trúng thầu được giao hợp đồng, Nhà thầu B lại phải thực hiện theo quy định của Nhà thầu A và phải trao đổi thông tin với Nhà thầu A để thực hiện công việc?
  • Tại sao có những nội dung của HSDT không nằm trong thỏa thuận mua bán quy trình nghiệp vụ mẫu lại cũng giống nhau?
Bên mời thầu có quyền kết luận những giải thích của Nhà thầu A và B là chưa rõ, chưa đủ sức thuyết phục hay không? Để đảm bảo khách quan, cạnh tranh của cuộc thầu, Bên mời thầu có quyền loại HSDT của Nhà thầu A và B hay không?

Một chủ đầu tư X đang tổ chức lựa chọn nhà thầu cho gói thầu hỗn hợp về thiết kế bản vẽ thi công, cung cấp vật tư thiết bị và lắp đặt, có tình huống như sau: Công ty A tham dự gói thầu nói trên và đã đề xuất trong HSDT thầu phụ là Công ty để thực hiện hạng mục thiết kế bản vẽ thi công. Tuy nhiên, Công ty B là đơn vị đã thực hiện lập báo cáo nghiên cứu khả thi và lập hồ sơ thiết kế kỹ thuật. Chủ đầu tư X muốn hỏi trong trường hợp này Công ty B không tham dự thầu gói thầu trong vai trò thầu chính mà chỉ tham gia trong vai trò thầu phụ thì có đảm bảo cạnh tranh theo quy định của pháp luật về đấu thầu không?

Trong quá trình thực hiện hợp đồng theo hình thức hợp đồng trọn gói, đơn vị sử dụng và Chủ đầu tư yêu cầu bổ sung thêm khối lượng ngoài khối lượng theo hợp đồng. Như vậy trong trường hợp này Nhà thầu có được tính phát sinh thêm khối lượng ngoài hợp đồng không?

Trung tâm X thuộc Sở Y của tỉnh A có câu hỏi như sau: Trung tâm X là đợn vị trực thuộc Sở Y, có con dấu, tài khoản riêng và hạch toán độc lập. Trung tâm X có đầy đủ chức năng, nhiệm vụ để thực hiện các dịch vụ tư vấn (Tư vấn gịiám sát, tư vấn thiết kế, thí nghiệm kiểm định chất lượng công trình xây dựng ...). Sở Y đang là Chủ đầu tư của một công trình xây dựng mà Trung tâm X có đủ năng lực thể thực hiện các dịch vụ tư vấn. Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 62 Nghị định số 63/2014/ NĐ- CP quy định: Trường hợp tổ chức trực tiếp quản lý, sử dụng gói thầu không có đơn vị hạch toán phụ thuộc thì trong phương án thực hiện phải bao gồm dự thảo về thỏa thuận giao việc cho một đơn vị thuộc mình thực hiện. Trung tâm X muốn hỏi Sở Y có thể giao nhiệm vụ cho Trung tâm X thực hiện các gói thầu tư vấn của công trình do Sở Y làm chủ đầu tư (đối với gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn có giá trị trên 500 triệu đồng) theo hình thức tự thực hiện với phương án thỏa thuận giao việc không?

Sở X thuộc tỉnh A có câu hỏi về áp dụng hình thức tự thực hiện như sau: Để thực hiện chính sách “Hỗ trợ 70% chi phí mua giống lúa chất lượng cho các Người sản xuất, mức hỗ trợ không quá 1,05 triệu đồng/ha”, Sở A được UBND tỉnh A giao chỉ đạo Trung tâm Giống cây trồng Y thuộc Sở A thực hiện nội dung hỗ trợ giống lúa Hương thơm số 1 (HT1), là giống lúa chất lượng (đã được xã hội hóa, không phải giống lúa độc quyền) cho nông dân trong tỉnh. Trung tâm Giống cây trồng Y là đơn vị sự nghiệp khoa học và sản xuất kinh doanh thuộc Sở X, thực hiện chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu; có chức năng nghiên cúu, khảo nghiệm, chọn tạo, sản xuất và cung ứng các loại giống cây trồng có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao phù hợp với điều kiện sản xuất của tỉnh. Tại Điều 25 Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 quy định “Tự thực hiện được áp dụng đối với gói thầu thuộc dự án, dự toán mua sắm trong trường hợp tổ chức trực tiếp quản lý, sử dụng gói thầu có năng lực kỹ thuật, tài chính và kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu của gói thầu". Sở X muốn hỏi nếu giao Trung tâm Y tự thực hiện gói thầu cung cấp giống lúa chất lượng hỗ trợ cho nông dân trong tỉnh theo Điều 25 Luật Đấu thầu thì có đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật.