Showing 341–360 of 440 results

Công ty chúng tôi được thông báo trúng thầu gói thầu dịch vụ tư vấn. Theo đó, để chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, công ty của tôi ủy quyền cho Chi nhánh ký Hợp đồng và đóng dấu của Chi nhánh với khách hàng có được không (khi đó Giám đốc hoặc Phó Giám đốc Chi nhánh ký). Một số ý kiến cho rằng phải phân cấp chứ không được ủy quyền. Hỏi: Trường hợp này, phân cấp hay ủy uyền mới đúng quy định?

Tình huống: Ban QLDA công trình giao thông tỉnh A gặp phải tình huống như sau: Trong quá trình đấu thầu, thảo thuận liên danh A-B quy định, nhà thầu đứng đầu liên danh (A) thực hiện 70% giá trị gói thầu, nhà thầu thành viên liên danh (B) thực hiện 30% giá trị gói thầu. HSMT quy định "Đối với nhà thầu liên danh thì năng lực, kinh nghiệm được xác định bằng tổng năng lực, kinh nghiệm của các thành viên liên danh song phải bảo đảm từng thành viên liên danh đáp ứng năng lực, kinh nghiệm đối với phần việc mà thành viên đó đảm nhận trong liên danh; nếu bất kỳ thành viên nào trong liên danh không đáp ứng về năng lực và kinh nghiệm thì nhà thầu liên danh được đánh giá là không đáp ứng yêu cầu". Tại mục yêu cầu về nhân sự chủ chốt trong hồ sơ mời thầu yêu cầu tối thiếu 20 công nhân kỹ thuật (Chuyên ngành phù họp). Liên danh nhà thầu A-B đăng ký đủ số lượng 20 công nhân kỳ thuật, tuy nhiên toàn bộ sổ lượng công nhân đăng ký huy động đều thuộc sở hữu của nhà thầu đứng đầu liên danh (A), nhà thầu thành viên liên danh (B) không có một công nhân kỹ thuật nào. Trong thỏa thuận liên danh cũng như trong hồ sơ dự thầu của nhà thầu A-B cũng không hề có tài liệu chứng minh hay thỏa thuận về việc sẽ huy động, điều động, luân chuyển nhân sự trong nội bộ thành viên liên danh để phục vụ gói thầu. Câu hỏi: Liên danh A- B có đáp ứng về nhân sự hay không?

Ban Quản lý dự án A có câu hỏi như sau: Chủ đầu tư A tố chức lựa chọn nhà thầu cho gói thầu mua sắm hàng hóa theo hình thức đấu thầu rộng rãi, phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ, hình thức hợp đồng trọn gói. Sau khi xem xét, đánh giá hồ sơ dự thầu và thương thảo hợp đồng, Chủ đầu tư A đà ký kết hợp đồng cung cấp thiết bị với nhà thầu A (nhà thầu xếp hạng thứ nhất) với giá trị họp đồng là X. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện hợp đồng, nhà thầu A không cung cấp đúng loại thiết bị theo yêu cầu và không còn năng lực để tiếp tục hợp đồng. Do đó, chủ đầu tư A từ chối nghiệm thu khối lượng công việc đã thực hiện, hoàn trả toàn bộ thiết bị nhà thầu A đã cung cấp, tiến hành thanh toán hợp đồng và xử lý vi phạm hợp đồng đối với nhà thầu A. Nhà thầu A đã hoàn trả toàn bộ số tiền tạm ứng và nộp phạt theo quy định. Khoản 11 Điều 117 Nghị định 63/2014/NĐ-CP quy định: “Trường hợp nhà thầu thực hiện gói thầu vị phạm hợp đồng, không còn năng lực đề tiềp tục thực hiện hợp đồng, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến độ, chất lượng, hiệu quả của gói thầu thì chủ đầu tư xem xét, báo cáo người có thẩm quyền quyết định cho phép chấm dứt hợp đồng với nhà thầu đó, phần khối lượng công việc chưa thực hiện dược áp dụng hình thức chỉ đinh thầu hoặc các hình thức lựa chọn nhà thầu khác trên cơ sở bảo đảm chất lượng, tiến độ cùa gói thầu. Giá trị phần khối lượng công việc chưa thực hiện giao cho nhà thầu mới được tính bằng giá trị ghi trong hợp đồng trừ đi giá trị của phần khối lượng công việc đã thực hiện trước đó". Vậy trong trường hợp này, chủ đầu tư A được áp dụng hình thức chỉ định thầu cho nhà thầu B với giá trị hợp đồng là X để tiếp tục thực hiện cung cấp thiết bị không? Trường hợp không được áp dụng hình thức chỉ định thầu thì xử lý như thế nào đối với trường hợp này?

Công ty M có câu hỏi cho chuyên gia như sau: Theo Điều 25 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 quy định tự thực hiện được áp dụng trong trường hợp tổ chức trực tiếp quản lý, sử dụng gói thầu có năng lực kỹ thuật, tài chính và kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu của gói thầu. Điều 61 và Điều 62 khoản 1 Nghị định số 63/2014/NĐ- CP quy đỉnh về các điều kiện được áp dụng hình thức tự thực hiện, trong đố bao gồm: (i) có chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực hoạt động và ngành nghề kinh doanh phù hợp với yêu cầu của gói thầu; (ii) phải chứng minh và thể hiện trong phương án tự thực hiện về khả năng huy động nhân sự, máy móc, thiết bị đáp ứng yêu cầu về tiến độ thực hiện gói thầu; (iii) đơn vị được giao thực hiện gói thầu không được chuyển nhượng khối lượng công việc với tổng số tiền từ 10% giá gói thầu trở lên hoặc dưới 10% giá gói thầu nhưng trên 50 tỷ đồng. Trường hợp gói thầu do đơn vị hạch toán phụ thuộc thực hiện thì trong phương án thực hiện phải bao gồm dự thảo hợp đồng. Trường hợp tổ chức trực tiếp quản lý, sử dụng gói thầu không có đơn vị hạch toán phụ thuộc thì trong phương án thực hiện phải bao gồm dự thảo về thỏa thuận giao việc cho một đơn vị thuộc mình thực hiện. Trên thực tế, một Tổng công ty Nhà nước có nhiều đơn vị trực thuộc gồm Trung tâm tư vấn thiết kế, các Ban quản lý dự án chuyên ngành, Ban quản lý dự án khu vực được thành lập theo Nghị định 59/2015/NĐ-CP ngày 18/6/2015, theo đó mỗi đơn vị có một chức năng, nhiệm vụ riêng đáp ứng được yêu cầu công việc, các điều kiện chuyên ngành và yểu tố đặc thù của Tổng công ty. Tổng công ty Nhà nước ban hành quy chế ủy quyền phân việc, theo đó, giao cho các Ban quản lý dự án khu vực được quyền phê duyệt những dự án đầu tư có tổng mức đầu tư dưới 10 tỷ đồng. Trong trường hợp này, Trung tâm tư vấn thiết kế và Ban quản lý dự án có địa vị pháp lý ngang nhau trong Tổng công ty. Để áp dụng hình thức tự thực hiện gói thầu tư vấn thiết kế đối với các dự án Tổng công ty đã phân cấp ủy quyền cho Ban quản lý dự án khu vực làm chủ đầu tư, Tổng công ty đã ban hành Quy chế phối họp giữa các đơn vị trực thuộc và Quy chế nội bộ về công tác đấu thầu, theo đó quy định về hình thức tự thực hiện, cụ thể: “ Trung tâm tư vấn thiết kế, Ban quản lý dự án là đơn vị trực thuộc Tổng công ty chủ động phối hợp thực hiện công tác tư vấn thiết kế đối với các dự án mà Ban quản lý dự án khu vực được ủy quyền làm chủ đầu tư đảm bảo hiệu quả, tiến độ, chất lượng và tuân thủ các quy định hiện hành”. “Tự thực hiện là việc Chủ đầu tư hoặc Đơn vị quản ty tài sản thông qua thỏa thuận bằng văn bản giao cho bộ phận, đơn vị hạch toán phụ thuộc trong đơn vị mình hoặc cùng hạch toán phụ thuộc một đơn vj cấp trên để thực hiện một hoặc nhiều gói thầu do mình quản ty. Tiêu chí và điều kiện áp dụng hình thức tự thực hiện áp dụng như Quy định của Luật đấu thầu". Như vậy, với các dự án do Ban quản ty dự án khu vực được giao làm chủ đầu tư, phần việc liên quan đến tư vấn thiết kế được Trung tâm tư vấn thiết kế thực hiện trên cơ sở văn bản thỏa thuận giữa Trung tâm và Ban quản ty dự án theo hình thức tự thực hiện có phù hợp với quy định của Pháp luật hay không? Trong trường hợp cần điều chỉnh, bổ sung hoặc ban hành mới các Quy định nội bộ nhằm xây dựng cơ chế phối hợp giữa các đơn vị trực thuộc Tổng công ty để thực hiện các dự án được phân cấp ủy quyền như trên thì có quy định cụ thể hay không và cần điều chỉnh như thế nào để phù hợp với quy định của Pháp luật hiện hành?  

Ông Lê Nhật Anh ở Hoài Đức có câu hỏi như sau: Nhà thầu A đang tham dự gói thầu mua sắm hàng hóa trong đó HSMT được lập theo Thông tư 05/2015/TT-BKHĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Theo số liệu tài chính trong báo cáo kiểm toán do nhà thầu đệ trình thì giá trị ròng các năm đều dương nhưng hiện tại Nhà thầu đang nợ thuế. Hỏi nhà thầu có được đánh giá là tình hình tài chính lành mạnh?

Ông Trần Minh Hoàng ở Quảng Bình có câu hỏi như sau: Trong quá trình xem xét đánh giá HSDT của một nhà thầu Liên danh A và B có xảy ra tình huống. Theo thỏa thuận liên danh được ký kết giữa Công ty A và Công ty B thì Công ty A là thành viên đứng đầu liên danh có trách nhiệm ký đơn dự thầu và sử dụng dấu của Công ty A là con dấu của Liên danh. Theo thỏa thuận Liên danh tên gọi của liên danh cho mọi giao dịch liên quan đến gói thầu là: "Liên danh Công ty A và Công ty B" và các thành viên cam kết không đơn vị nào tự ý tham gia độc lập hoặc liên danh với nhà thầu khác để tham gia gói thầu này. Trong đơn dự thầu của Liên danh nói trên, phần tiêu đề ghi là “liên danh Công ty A - Công ty B”, phần ký tên ghi là “đại diện hợp pháp của liên danh nhà thầu - Công ty A” nhưng phần nội dung lại ghi thành: "Chúng tôi, Công ty A cam kết thực hiện gói thầu...." Hỏi trong trường hợp nói trên, đơn dự thầu của nhà thầu có được đánh giá là hợp lệ?

Công ty TNHH Nam Khánh là đơn vị tư vấn đấu thầu. Trong quá trình tư vấn đấu thầu cho một gói thầu xây lắp ở Hải Dương có xảy ra tình huống muốn xin ý kiến của chuyên gia như sau: Theo Điều 5 của Luật đấu thầu số 43 thì nhà thầu phải đăng ký trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia trước thời điểm đóng mở thầu (Đóng mở thầu của gói thầu là ngày 16/03/2019). Trong Hồ sơ đề xuất của 01 nhà thầu có đóng theo 01 đơn đăng ký (ngày trong đơn ghi là 18/01/2019) theo mẫu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư có chữ ký và con dấu của người đại diện hợp pháp của nhà thầu nộp lên Cục quản lý đấu thầu - Bộ kế hoạch và Đầu tư. Nhưng kiểm tra trên hệ thống Muasamcong.mpi.gov.vn thì chưa thấy xuất hiện tên công ty nói trên trên mạng. Bên mời thầu có mời nhà thầu làm rõ thì được biết nhà thầu đăng ký ngày 18/01/2019 nhưng đánh sai mã số thuế thành mã số doanh nghiệp. Vậy công ty chúng tôi muốn hỏi trong trường hợp này nhà thầu nói trên có được đánh giá hợp lệ không?

Ông Lê Thành Đạt đang công tác tại Ban Quản lý dự án ở Quảng Nam có câu hỏi như sau: Theo Điểm d Khoản 2 Điều 111 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định điều kiện để cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động đấu thầu khi có tổi thiểu 4 năm kinh nghiệm liên tục làm các công việc liên quan trực tiếp đến hoạt động đấu thầu hoặc 5 năm kinh nghiệm không liên tục. Tuy nhiên, tại Khoản 7 Điều 35 Thông tư số 03/2016/TT-BKHĐT quy định thì kể từ ngày 01/01/2018, các cá nhân tham gia trực tiếp vào việc lập, thẩm định hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển, hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu, đánh giá hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất, thẩm định kết quả mời thầu quan tâm, kết quả mời sơ tuyển, kết quả lựa chọn nhà thầu thuộc tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp, doanh nghiệp, đơn vị hoạt động tư vấn đấu thầu, ban quản lý dự án chuyên nghiệp, đơn vị mua sắm tập trung phải có chứng chỉ hành nghề hoạt động đấu thầu. Vì vậy, với cá nhân một người chưa hoạt động đấu thầu lần nào trước 01/01/2018, nhưng muốn được cấp chứng chỉ hành nghề trong tương lai. Thì việc đáp ứng Điểm d Khoản 2 Điều 111 Nghị định 63/2014/NĐ-CP được thực hiện ra sao? Và các công việc liên quan trực tiếp đến hoạt động đấu thầu gồm các công việc gì? Có công việc nào liên quan trực tiếp đến việc đấu thầu mà không cần chứng chỉ hành nghề?  

Công ty DP có câu hỏi cho chuyên gia như sau: Theo quy định của HSMT: “Hồ sơ dự thầu (HSDT) phải có hiệu lực > 120 ngày kể từ ngày có thời điểm đóng thầu. HSDT nào có thời hạn hiệu lực ngắn hơn quy định sẽ không được tiếp tục xem xét, đánh giá”. (Ngày đóng thầu theo quy định trong Hồ sơ mời thầu là lúc 10 giờ ngày 17/09/2018). Khi mở thầu, Nhà thầu A đã ghi nội dung hiệu lực của Hồ sơ dự thầu trong đơn dự thầu là: “Hồ sơ đề xuất này có hiệu lực trong thời gian 60 ngày, kể từ ngày 17 tháng 09 năm 2018”. Trong biên bản mở thầu cũng đã ghi hiệu lực Hồ sơ dự thầu của nhà thầu này là 60 ngày kể từ ngày 17/9/2018, nhà thầu A có tham dự mở thầu và đã ký xác nhận. Sau đó, ngày 18 tháng 9 năm 2018 nhà thầu đã gửi công văn làm rõ về thời gian có hiệu lực của hồ sơ dự thầu, với nội dung: “Do biết thông tin về gói thầu muộn (16h ngày 14/9/2018) nên thời gian làm bài thầu gấp. Do vậy, không thể tránh khỏi sai sót nên đã đánh thiếu số 1 trước số 60. Nhưng rất mong Chủ đầu tư xem xét chấp thuận sự nhầm lẫn này". Công văn của nhà thầu gửi đến sau thời gian mở thầu nên được coi là công văn làm rõ Hồ sơ dự thầu. Nội dung công văn đã điều chỉnh hiệu lực của hồ sơ dự thầu của nhà thầu từ 60 ngày lên 160 ngày. Như vậy, việc làm rõ hồ sơ dự thầu của nhà thầu đã làm thay đổi bản chất của hồ sơ dự thầu đã nộp. Công ty DP hỏi việc làm rõ về thời gian có hiệu lực của Hồ sơ dự thầu như vậy có được chấp thuận không?

Công ty Dịch vụ A có câu hỏi như sau: Là một doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, Công ty đang thực hiện nhiệm vụ in sản phẩm đặc biệt do Ngân hàng Nhà nước giao. Hàng năm Công ty thực hiện mua sắm mực in bảo an phục vụ nhiệm vụ nêu trên theo hình thức chỉ định thầu thông thường do đặc thù về bản quyền, công nghệ, bí mật nhà nước và thực tế trên thế giới chỉ có duy nhất một nhà thầu đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định. Hiện nay, Công ty mong muốn nhà thầu duy trì mức chào giá ổn định qua các năm cho mục tiêu bền vững, hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo đề nghị của nhà thầu sản xuất mực in bảo an, hai bên cần ký Thỏa thuận cung cấp và hợp tác dài hạn mang tính nguyên tắc để đảm bảo việc nhà thầu giữ nguyên mức chào giá cho Công ty trong suốt thời hạn của thỏa thuận. Với các quy định pháp luật hiện hành, trong tình huống được mô tả tóm tắt như trên, Công ty Dịch vụ A xin được giải đáp việc Công ty ký Thỏa thuận cung cấp và hợp tác dài hạn với nhà thầu được lựa chọn theo hình thức chỉ định thầu có đảm bảo tuân thủ các quy định pháp luật đấu thầu.

Đối với tình huống này, chuyên gia của chúng tôi trả lời như sau: Trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu, Tổ chuyên gia đấu thầu đã báo cáo trường hợp hồ sơ dự thầu bản gốc của nhà thầu A với toàn bộ chữ ký đại diện hợp pháp của nhà thầu là chữ ký khắc dấu sẵn (không phải chữ ký trực tiếp) và đóng dấu pháp nhân của nhà thầu tại các văn bản như đơn dự thầu, cam kết dự thầu, biểu mẫu dự thầu,... Theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu, đon dự thầu cũng như các biểu mẫu kê khai của hồ sơ dự thầu phải được đại diện hợp pháp của nhà thầu ký tên và đóng dấu [ghi tên, chức danh, ký tên và đóng dấu]. Được biết theo quy định về thủ tục hành chính, văn bản phải được ký tên của người đại diện theo pháp luật và đóng dấu pháp nhân (nếu có). Câu hỏi của chúng tôi là hồ sơ dự thầu của nhà thầu A với toàn bộ chữ ký đại diện hợp pháp của nhà thầu là chữ ký khắc dấu sẵn, được đóng vào hồ sơ dự thầu và đóng dấu pháp nhân như đã nêu trên có được xem là chữ ký hợp pháp của nhà thầu theo quy định của hồ sơ mời thầu không?

Ông Lê Xuân Hùng có câu hỏi như sau: Công ty của ông đang chuẩn bị đấu thầu gói thầu mua sắm lắp đặt hàng hóa. Đối với yêu cầu đánh giá "Kết qua hoạt động tài chính” và "Doanh thu bình quân hàng năm từ hoạt động sản xuất, kinh doanh”  thì tài liệu cần nộp theo mẫu số 09. Theo đó, trong mẫu số 09 chúng tôi thấy có yêu cầu "Các báo cáo tài chính được kiểm toán theo quy định”. Tuy nhiên, Công ty của ông thuộc loại hình công ty TNHH không thuộc đối tượng bắt buộc phải thực hiện kiểm toán theo quy định của Điều 37 Luật Kiêm toán độc lập 67/2011/QH12 ngày 29/3/2011 và Nghị định số 17/2012/NĐ-CP ngày 13/3/2012. Vậy, công ty của chúng tôi có phải đính kèm các báo cáo tài chính được kiểm toán? Trong trường hợp có báo cáo tài chính được kiểm toán thì trong HSDT, chúng tôi chỉ nộp báo cáo kiểm toán thì có được đánh giá là đáp ứng được yêu cầu? Nêu không đáp ứng được yêu cầu thì ngoài báo cáo kiểm toán này chúng tôi còn phải kèm theo những tài liệu nào khi dự thầu: - Biên bản kiểm tra quyết toán thuế - Tờ khai tự quyết toán thuế (thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp) có xác nhận của cơ quan thuế về thời điểm đã nộp tờ khai. - Tài liệu chứng minh việc nhà thầu đà kê khai quyết toán thuế điện tử. - Văn bản xác nhận của cơ quan quan lý thuế (xác nhận số nộp cả năm) về việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế - Báo cáo kiểm toán. - Các tài liệu khác (xin cho hỏi là tài liệu gì?).    

Ông Đặng Thanh Nam ở Nghệ An có câu hỏi như sau: Tôi xin hỏi, theo yêu cầu đối với hợp đồng trọn gói thì khi đấu thầu nhà thầu phải phân bổ chi phí dự phòng vào giá dự thầu. Nhưng có nhà thầu không phân bổ vào giá dự thầu (nhà thầu cộng hết giá dự thầu từng hạng mục và cộng thêm khoản dự phòng) thì xử lý thế nào?

Bà Võ Thị Mỹ Lan ở Quảng Bình có câu hỏi như sau: Tôi xin hỏi: trong chỉ định thầu rút gọn, đấu thầu rộng rãi và các hình thức lựa chọn nhà thầu khác có bắt buộc phải có điều kiện: "Nhà thầu phải có tên trong cơ sở dữ liệu về nhà thầu của cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động đấu thầu không? Cần truy cập trang web nào để kiểm tra cơ sở dữ liệu về nhà thầu và để biết nhà thầu đã đăng ký trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia chưa?

Ban quản lý dự án X đã ký hợp đồng về thi công xây lắp với nhà thầu liên danh X (gồm 2 công ty A và B). Đến nay, Ban quản lý đã nghiệm thu khối lượng hoàn thành đợt 1 cho các thành viên liên danh và từng thành viên liên danh đã đệ trình hồ sơ thanh toán cho chủ đầu tư. Tuy nhiên do khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng và vốn thanh toán, Ban quản lý đã chưa bàn giao toàn bộ mặt bằng để tiếp tục triển khai thi và thanh toán giá trị khối lượng hoàn thành cho liên danh nhà thầu. Theo quy định của Hợp đồng, Nhà thầu A (thành viên liên danh thứ nhất) đã có công văn chính thức xin ngừng thi công và xin chấm dứt hợp đồng và có đề xuất giao phần khối lượng còn lại (theo thỏa thuận phân chia khối lượng trong liên danh) cho Nhà thầu B (thành viên liên danh thứ hai) thực hiện. Nhà thầu B đã đồng ý tiếp tục thực hiện khối lượng còn lại của Nhà thầu trên cơ sở đơn giá họp đồng đã ký kết. Qua kiểm tra hồ sơ năng lực của Nhà thầu tại thời điểm hiện tại, năng lực của nhà thầu B đáp ứng yêu cầu của Hồ sơ mời thầu. Ban QLDA X đã hỏi trong trường hợp nói trên, nhà thầu B có thể thực hiện phần công việc còn lại của nhà thầu A không?  

Ban QLDA công trình giao thông tỉnh A đang lựa chọn nhà thầu theo hình thức đấu thầu rộng rãi trong nước. Trong đó, Gói thầu A1 (thi công đường từ Km0+000-:-Km4+000), Gói thầu A2 (Km4+000-:-Km8+000) được phát hành cùng lúc. Nhà thầu B tham dự cả hai gói thầu trên. Trong quá trình đánh giá Hồ sơ dự thầu, Tổ chuyên gia phát hiện, nhân sự chủ chốt của hai gói thầu là như nhau. Hỏi:  Tổ chuyên gia sẽ đánh giá như thế nào đối với trường hợp này để đảm bảo quy định của pháp luật?

Theo quy định tại diêm c, khoản 1, điều 22 Luật đấu thầu, các trường hợp được chỉ định thầu bao gồm: "Gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa phải mua từ nhà thầu đã thực hiện trước đó do phải bảo đảm tính tương thích về công nghệ, bản quyền mà không thể mua được từ nhà thầu khác; gói thầu có tính chất nghiên cứu, thử nghiệm; mua bản quyền sở hữu trí tuệ" Trường hợp nhà thầu A đã trúng thầu gói thầu được tổ chức theo hình thức đau thầu rộng rộng rãi và thưc hiện hợp đồng cung cấp hàng hóa do hãng X sản xuât trước đây. Theo yêu cầu của dự án đầu tư mở rộng, Chủ đâu tư phải mua hàng hoá của hãng X để mớ rộng dung lượng của hệ thống đã đầu tư theo kết quả gói thầu trước. Độc giả xin hỏi:

  • Chủ đầu tư chỉ định nhà thầu A để tiếp tục cung cấp hàng hóa của hãng X sản xuất do đảm bảo tương thích về công nghệ, bản quyền có đúng với quy định của điểm c, khoản 1, diều 22 Luật đấu thầu không?
  • Trường hợp, do chinh sách bán hàng của hãng X, ở thời điểm chủ đầu tư có nhu cầu mở rộng hệ thống đã đầu tư, hãng X không ủy quyền cho công ty A làm đối tác bán hàng mà có công văn thông báo chỉ chọn duy nhất công ty B là đối tác bán hàng thì chúng tôi có được chi định công ty B cung cấp hàng hóá mở rộng dung lượng cho hệ thống của hãng X được đầu tư theo kết quả của gói thầu trước được không?

Theo quy định tại diêm c, khoản 1, điều 22 Luật đấu thầu, các trường hợp được chỉ định thầu bao gồm: "Gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa phải mua từ nhà thầu đã thực hiện trước đó do phải bảo đảm tính tương thích về công nghệ, bản quyền mà không thể mua được từ nhà thầu khác; gói thầu có tính chất nghiên cứu, thử nghiệm; mua bản quyền sở hữu trí tuệ" Trường hợp nhà thầu A đã trúng thầu gói thầu được tổ chức theo hình thức đau thầu rộng rộng rãi và thưc hiện hợp đồng cung cấp hàng hóa do hãng X sản xuât trước đây. Theo yêu câu của dự án đâu tư mở rộng, Chủ đâu tư phải mua hàng hoá của hãng X để mớ rộng dung lượng của hệ thống đã đầu tư theo kết quả gói thầu trước Hỏi:

  • Chủ đầu tư chỉ định nhà thầu A để tiếp tục cung cấp hàng hóa của hãng X sản xuất do đảm bảo tương thích về công nghệ, bản quyền có đúng với quy định của điểm c, khoản 1, Điều 22 Luật đấu thầu không?
  • Trường hợp, do chinh sách bán hàng của hãng X, ở thời điểm chủ đầu tư có nhu cầu mở rộng hệ thống đã đầu tư, hãng X không ủy quyền cho công ty A làm đối tác bán hàng mà có công văn thông báo chỉ chọn duy nhất công ty B là đối tác bán hàng thì chúng tôi có được chi định công ty B cung cấp hàng hóá mở rộng dung lượng cho hệ thống của hãng X được đầu tư theo kết quả của gói thầu trước được không?

Theo quy đinh tại khoản 3, Điều 6 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định: “Đổi với gói thầu xây lắp co giá gói thầu không quá 5 tỷ đồng chỉ cho phép nhà thầu là doanh nghiệp cấp nhỏ và siêu nhỏ theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp tham gia đấu thầu” Trường hợp tổ chức đấu thầu rộng rãi/chào hàng cạnh tranh và hồ sơ mời thầu (HSMT)/hồ sơ yêu cầu (HSYC) có quy định chỉ các nhà thầu cấp nhó và siêu nhỏ được phép tham gia, tuy nhiên không có nhà thầu tham dự hoặc có nhà thầu tham dự là các doanh nghiệp cấp nhỏ và siêu nhó nhưng không đáp ứng yêu cầu về năng lực, kinh nghiệm thực hiện gói thầu theo yêu cầu trong HSMT/HSYC Độc giả xin hỏi chuyên gia: tình huống này được xử lý như thế nào để chủ đầu tư có thể chọn được nhà thầu đáp ứng năng lực, kinh nghiệm và đúng luật.

Chúng tôi là Ban QLDA đầu tư xây dựng dân dụng và công nghiệp tỉnh X (đơn vị A), có ký kết hợp đồng với Chủ đầu tư (đơn vị B) để làm bên mời thầu, lập HSMT và đánh giá HSDT một gói thầu phi tư vấn. Trong quá trình đánh giá HSDT của các nhà thầu có 1 công ty ghi trong đơn dự thầu là kính gửi đơn vị B (chủ đầu tư) chứ không kính gửi đơn vị A (bên mời thầu). Vậy xin hỏi, việc ghi sai tên Bên mời thầu (từ chủ thể A sang chỉ thể B) vậy thì chúng tôi đánh giá HSDT như thế nào? Có loại bỏ HSDT này được không?