Showing 141–160 of 451 results

Bên mời thầu X đang quá trình đánh giá HSDT cho gói thầu mua sắm hàng hóa thực hiện đấu thầu rộng rãi trong nước phương thức 01 giai đoạn 02 túi hồ sơ, có câu hỏi như sau: Tiêu chuẩn đánh giá về năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu trong HSMT quy định nhân sự nhà thầu có tối thiểu 10 người tốt nghiệp đại học chuyên ngành liên quan đến gói thầu và yêu cầu nhà thầu phải cung cấp hợp đồng lao động và danh sách đóng bảo hiểm 3 tháng gần nhất của các nhân sự nói trên. Trong số các nhà thầu tham dự có nhà thầu liên danh A+B. Theo thỏa thuận liên danh, 2 nhà thầu đều trách nhiệm cung cấp hàng hóa theo yêu cầu của gói thầu. Hồ sơ dự thầu (HSDT) của nhà thầu này có kê khai 10 người, trong đó có 5 người của công ty A, 5 người của công ty B kèm theo bằng tốt nghiệp đại học phù hợp yêu cầu, hợp đồng lao động ký với 10 người này. Tuy nhiên, trong HSDT chỉ có danh sách đóng bảo hiểm của 5 người thuộc công ty A, không có danh sách đóng bảo hiểm của nhân sự thuộc công ty B. Bên mời thầu đã có văn bản làm rõ về danh sách đóng bảo hiểm 5 người thuộc công ty B gửi cho nhà thầu liên danh A+B nói trên. Đến thời hạn quy định, nhà thầu đã có văn bản trả lời theo đó bổ sung thêm 5 người vào danh sách nhân sự thực hiện gói thầu, 5 người này đều của công ty A kèm theo bằng tốt nghiệp đại học, hợp đồng lao động và có danh sách đóng bảo hiểm phù hợp với yêu cầu của HSMT. Bên mời thầu X muốn hỏi trong trường hợp nói trên thì nhân sự của nhà thầu liên danh có được đánh giá đáp ứng yêu cầu?

100,000.00

Bên mời thầu X đang đánh giá HSDT cho gói thầu xây lắp có câu hỏi như sau: Trong quá trình xem xét HSDT cho nhà thầu Y, bên mời thầu đã yêu cầu nhà thầu đệ trình bản gốc các giấy tờ về thiết bị của nhà thầu Y đi thuê để đối chiếu. Tuy nhiên, nhà thầu Y đã có văn bản làm rõ thông báo giấy tờ bản gốc của các thiết bị đề xuất bị thất lạc và nhà thầu đã cung cấp các giấy tờ gốc của các thiết bị khác có công suất tương đương để thay thế các thiết bị đã đề xuất. Bên mời thầu muốn hỏi việc bổ sung các tài liệu chứng minh thiết bị như vậy có làm thay đổi bản chất của HSDT?

Ban QLDA X đang đánh giá HSDT cho gói thầu tư vấn xây dựng xảy ra tình huống như sau: Do nhầm lẫn trong quá trình đăng tải E-HSMT trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia, mục tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu không đúng theo E-HSMT đã được phê duyệt của Chủ đầu tư. Cụ thể là trong Quyết định phê duyệt HSMT, tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu là "Phương pháp kết hợp giữa kỹ thuật và giá" nhưng trong HSMT đăng trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia thì tiêu chuẩn đánh giá HSDT là "Phương pháp dựa trên kỹ thuật". Ban X đã hoàn thành công tác đánh giá Đề xuất kỹ thuật và đang chuyển bước đánh giá tài chính. Trước khi tiến hành đánh giá Đề xuất tài chính, ban X đã gửi Văn bản cho Bộ KHĐT xin điều chỉnh lại HSMT trên mạng để phù hợp với nội dung HSMT đã được duyệt.

Công ty chúng tôi đang tham gia một số gói thầu mua sắm hàng hóa thiết bị. Trong Hồ sơ mời thầu có yêu cầu: "Nhà thầu phải có bản gốc giấy phép bán hàng cùa nhà sản xuất và cam kết hồ trợ kỹ thuật của nhà sản xuất hỗ trợ trực tiếp cho gói thầu này đối với hạng mục hàng hóa sau: hệ thống máy chủ. Trong Hồ sơ dự thầu của Công ty chúng tôi đã sử dụng thư ủy quyền bán hàng và cam kết hỗ trợ kỹ thuật của các đơn vị đại lý phân phối chính thức của các hãng sản xuất thiết bị như IBM. HP, Dell,... tại Việt Nam cho các hạng mục thiết bị. Căn cứ theo mục 1 điều 6 thông tư 05/2015/TT-BKHĐT Quy định chi tiết lập hồ sơ mời thầu mua sắm hàng hoá ngày 16/6/2015 như sau: Điều 6. Giấy phép bán hàng của nhà sản xuất 1. Đối với hàng hóa thông thường, thông dụng, sẵn có trên thị trường, đã được tiêu chuẩn hóa và được bảo hành theo quy định của nhà sản xuất thì không yêu cầu nhà thầu phải nộp giấy phép bán hàng của nhà sản xuất hoặc giấy chứng nhận quan hệ đối tác hoặc tài liệu khác có giá trị tương đương. Bên cạnh đó, theo quy định thì các hãng sản xuất đều không được phép bán hàng tại Việt Nam mà đều phải thông qua các nhà phân phối chính thức; các nhà phân phối này bán các sản phẩm chính hãng của nhà sản xuất và đại diện cho hãng sản xuất về việc bảo hành bảo trì, hỗ trợ kỹ thuật theo đúng tiêu chuẩn của hãng sản xuất đối với các thiết bị được phân phối tại Việt Nam. Với những thông tin như trên, phía Công ty hiểu Thư uỷ quyền và hỗ trợ kỹ thuật của Nhà phân phối chính thức sản phẩm của Nhà sản xuất tại Việt Nam hoàn toàn có giá trị tương đương như Thư ủy quyền và hỗ trợ kỹ thuật của Nhà sản xuất khi cung cấp trong Hồ sơ dự thầu. Công ty chúng tôi xin hỏi chuyên gia là chúng tôi hiểu như vậy đã đúng theo quy định của thông tư 05/2015/TT-BKHĐT Quy định chi tiết lập hồ sơ mời thầu mua sắm hàng hoá ngày 16/6/2015 hay chưa?

Tại mục 10 điều 19 thanh toán hợp đồng xây dựng thuộc nghị định 37/2015/NĐ-CP, ngày 22/4/2015 quy định chi tiết về hợp đồng xây dựng có nêu: “Thời hạn thanh toán do các bên thỏa thuận trong họp đồng phù hợp với quy mô và tính chất của từng hợp đồng. Thời hạn thanh toán không được kéo dài quá 14 ngày làm việc kể từ ngày bên giao thầu nhận đủ hồ sơ thanh toán hợp lệ theo thỏa thuận trong hợp đồng? Vậy trong quá trình thương thảo hợp đồng Chủ đầu tư và Nhà thầu có thỏa thuận thời hạn thanh toán hợp đồng lớn hơn 14 ngày làm việc kể từ ngày bên giao thầu nhận đủ hồ sơ thanh toán hợp lệ theo thỏa thuận trong hợp đồng có được không?

Bên mời thầu X đang chuẩn bị hồ sơ yêu cầu đối với gói thầu áp dụng hình thức chào hàng cạnh tranh. Theo quy định điểm i, Khoản 6, Điều 89 Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 ngày 26/11/2013, một trong các hành vi bị cấm trong đấu thầu là nêu nhãn hiệu, xuất xứ hàng hoá trong hồ sơ mời thầu đối với gói thầu mua sắm hàng hoá, xây lắp hoặc gói thầu hỗn hợp khi áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế. Bên mời thầu X muốn hỏi vậy với hình thức lựa chọn nhà thầu chào hàng cạnh tranh có được nêu nhãn hiệu, xuất xứ không?

Trong hồ sơ mời thầu (HSMT) đã phát hành có nội dung: "Đối với nhà thầu liên danh thì năng lực, kinh nghiệm được xác định bằng tổng năng lực, kinh nghiệm của các thành viên liên danh song phải bảo đảm từng thành viên liên danh đáp ứng năng lực, kinh nghiệm đối với phần việc mà thành viên đó đảm nhận trong liên danh; nếu bất kỳ thành viên nào trong liên danh không đáp ứng về năng lực, kinh nghiệm thì nhà thầu liên danh được đánh giá là không đáp ứng yêu cầu". Nhà thầu đứng đầu liên danh (theo Thỏa thuận liên danh) đảm nhiệm 50% giá trị công việc. Tuy nhiên, HSDT chỉ đề xuất 4 công nhân vận hành máy và 1 Chỉ huy trưởng, 1 cán bộ kỹ thuật phụ trách thi công, 1 cán bộ kỹ thuật phụ trách thi công hệ thống điện. Thành viên liên danh còn lại đảm nhận 50% công việc thì HSDT thì đề xuất 81 công nhân phục vụ thi công, 1 cán bộ kỹ thuật phụ trách thi công, 1 cán bộ kỹ thuật phụ trách cấp thoát nước, 1 đội trưởng thi công trực tiếp. Tôi xin hỏi chuyên gia, trong trường hợp nêu trên, nhà thầu đứng đầu liên danh có đáp ứng yêu cầu theo HSMT không?

Trong quá trình tham gia dự thầu gói thầu xây lắp có một nhà thầu làm giả báo cáo tài chính (Báo cáo tài chính trong hồ sơ dự thầu khác với báo cáo tài chính nộp tại cơ quan quản lý thuế. Giá trị tổng tài sản trong bảng cân đối kế toán của báo cáo tài chính trong hồ sơ dự thầu nhỏ hơn 20 tỷ đồng. Giá trị tổng tài sản trong bảng cân đối kế toán của báo cáo tài chính tại cơ quan thuế hơn 20 tỷ đồng). Trong quá trình lựa chọn nhà thầu thì nhà thầu làm giả báo cáo tài chính là nhà thầu được lựa chọn thực hiện thi công gói thầu nói trên. Vậy hành vi làm giả báo cáo tài chính của nhà thầu nêu trên có phải là hành vi gian lận trong đấu thầu dẫn đến làm sai lệch kết quả lựa chọn nhà thầu hay không? Nếu không phải hành vi gian lận trong đấu thầu thì nhà thầu nêu trên vi phạm vào điều gì?

Ban QLDA chúng tôi đã tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà thầu thi công công trình giao thông theo đúng quy định. Nhà thầu trúng thầu là Liên danh công ty TNHH A và công ty Cổ phần B. Gói thầu đã triển khai thi công từ tháng 8/2019, đến nay đã đạt được khoảng 35% tiến độ. Tuy nhiên, tháng 12/2019, Công ty TNHH A chia thành hai Công ty TNHH A1 và Công ty TNHH A2. Trong nghị quyết của Hội đồng thành viên của Công ty TNHH A có nêu: Công ty TNHH A1 được kế thừa toàn bộ các năng lực, kinh nghiệm trong lĩnh vực thi công của Công ty TNHH A. Ngày 02/1/2019, Công ty TNHH A1 đề nghị Ban QLDA ký kết Phụ lục họp đồng thi công gói thầu trên để chuyển tên nhà thầu liên danh từ Liên danh công ty TNHH A và công ty Cổ phần B thành Liên danh công ty TNHH A1 và công ty Cổ phần B. Hỏi: Chúng tôi xử lý tình huống này như thế nào?

Một doanh nghiệp dự án X trong quá trình triển khai dự án về xây dựng - kinh doanh - chuyển giao có câu hỏi như sau: Doanh nghiệp dự án X đã thực hiện ký kết các hợp đồng tư vấn xây dựng, hợp đồng thi công xây dựng,...trong đó có điều khoản về tạm ứng hợp đồng. Để đảm bảo việc tạm ứng cho Nhà thầu từ nguồn vốn nhà đầu tự có hoặc nguồn vốn huy động là phù hợp với quy định pháp luật hiện hành, doanh nghiệp dự án X cần hướng dẫn hai nội dung sau: Một là, việc Doanh nghiệp dự án ký kết hợp đồng tư vấn xây dựng, hợp đồng thi công xây dựng,...trong đó có điều khoản tạm ứng với tỷ lệ tạm ứng tối đa 30% giá trị hợp đồng có phù hợp với quy đinh hiện hành không? Hai là, nếu việc tạm ứng là phù hợp và Nhà thầu đã đáp ứng đầy đủ điều kiện theo quy định tại Hợp đồng đã ký mà Doanh nghiệp dự án không thực hiện tạm ứng hợp đồng thì Doanh nghiệp dự án có bị xem là vi phạm hợp đồng không?

Ban QLDA X là đơn vị sự nghiệp được cấp vốn Ngân sách Nhà nước hàng năm có câu hỏi như sau: Ban QLDA X đã tổ chức đấu thầu rộng rãi cho gói thầu xây lắp sử dụng mẫu HSMT quy định tại Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Trong mục “Điều kiện cụ thể của hợp đồng” trong HSMT, quy định về điều kiện thu hồi tạm ứng như sau: “Tiền tạm ứng được thu hồi dần qua các lần thanh toán, bảo đảm tiền tạm ứng được thu hồi hết khi giá trị thanh toán đạt 80% giá hợp đồng đã ký kết, mức thu hồi tạm ứng tối thiểu là 20% giá trị mỗi lần thanh toán". Khi ký hợp đồng với nhà thầu trúng thầu, hợp đồng cũng đã ghi rõ điều kiện trên đúng như quy định trong HSMT phát hành. Tuy nhiên, để tạo điều kiện giải ngân hết số vốn cuối năm, Ban QLDA X dự định ký bổ sung phụ lục hợp đồng để điều chỉnh tỷ lệ thu ứng từ 20% xuống 10% giá trị mỗi lần thanh toán và vẫn đảm bảo thu hồi hết ứng khi giá trị thanh toán đạt 80% giá hợp đồng đã ký kết. Ban X muốn hỏi việc thay đổi tỷ lệ thu hồi ứng trên có vi phạm quy định của HSMT và quy định của pháp luật về đấu thầu hay không?

Bên mời thầu X đang xem xét đánh giá HSDT của nhà thầu Y tham dự gói thầu A. Tuy nhiên, sau khi tìm hiểu thông tin trên mạng đấu thầu thì được biết nhà thầu Y đang bị một chủ đầu tư Z cấm tham gia hoạt động đấu thầu các dự án của chủ đầu tư Z trong vòng 05 năm. Theo quy định về đánh giá tính hợp lệ của nhà thầu có nội dung: "Nhà thầu không đang trong thời gian bị cấm tham gia hoạt động đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu”. Bên mời thầu X đang băn khoăn việc nhà thầu Y bị cấm như trên có đảm bảo tư cách hợp lệ cho gói thầu A của mình theo quy định nói trên.

Một chủ đầu tư X có câu hỏi như sau: Công ty Y là một trong các nhà thầu đã mua Hồ sơ mời thầu và nộp Hồ sơ tham gia đấu thầu các gói thầu do doanh nghiệp X làm chủ đầu tư. Trong quá trình tham gia đấu thầu các gói thầu chủ đầu tư X, Công ty Y đã nhiều lần cố ý cung cấp các thông tin không trung thực trong hồ sơ dự thầu, vi phạm khoản 4 Điều 89 Luật đấu thầu 2013 có hệ thống như: cung cấp bằng giả nhân sự, hợp đồng tương tự được chỉnh sửa giá trị hợp đồng và các thông tin khác... Căn cứ Điều 89, Điều 90 Luật đấu thầu 2013, Điều 122 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26 tháng 06 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đấu thầu về lựa chọn nhà thầu, Chủ đầu tư X dự kiến cấm Công ty Y tham gia hoạt động đấu thầu 05 năm đối với các dự án, dự toán mua sắm của Chủ đầu tư X. Vì đây là công việc mới lần đầu phát sinh trong quá trình hoạt động của chủ đầu tư X, đồng thời khi Quyết định được ban hành sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Y. Do đó, chủ đầu tư X muốn chuyên gia hướng dẫn thủ tục pháp lý của việc ban hành quyết định trong trường hợp cụ thể này.

Tình huống: Chúng tôi đang tổ chức lựa chọn nhà thầu một gói thầu tư vấn với hình thức đấu thầu rộng rãi, phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ, đánh giá về tài chính sử dụng phương pháp kết hợp giữa kỹ thuật và giá, hình thức hợp đồng trọn gói. Có hai (02) nhà thầu sau đây được gọi là (nhà thầu A và nhà thầu B) được mở hồ sơ đề xuất về tài chính (HSĐXTC). Trong đó, nhà thầu A chào giá dự thầu sau giảm giá không đúng với giá dự thầu trừ đi giá trị giảm giá, cụ thể như sau: + Giá dự thầu theo hồ sơ đề xuất tài chính là : 1.205.148.000 đồng + Trong đơn dự thầu nhà thầu A tự nguyện giảm giá số tiền được ghi cụ thể là 214.029.600 đồng. + Giá trị giảm giá cụ thể được ghi là (theo đơn dự thầu của nhà thầu A): 1.205.148.000-214.029.600 = 964.118.000 đồng Như vậy, giá trị giảm giá được ghi như ở trên (trong đơn dự thầu) có sai số số học. Chính xác giá trị giám giá của nhà thầu A phải là : 1.205.148.000-214.029.600 = 991.118.400 đồng. Sử dụng giá trị dự thầu theo hai cách trên có thể làm thay đổi thứ tự xếp hạng của nhà thầu A và B. Hỏi: Đối với tình huống này, chúng tôi phải xử lý thế nào?

Tình huống: Có hai (02) nhà thầu sau đây được gọi là (nhà thầu A và nhà thầu B) được mở hồ sơ đề xuất về tài chính (HSĐXTC). Trong đó, giá dự thầu theo hồ sơ đề xuất tài chính của nhà thầu A là : 1.205.148.000 đồng. Trong đơn dự thầu nhà thầu A, nhà thầu tự nguyện giảm giá số tiền được ghi cụ thể là: 214.029.600 đồng (giảm 20%). Tuy nhiên, thực tế, nếu giảm 20% giá dự thầu phải là: 241.029.600 đồng (không phải là 214.029.600 đồng). Sử dụng giá trị giảm giá theo hai con số khác nhau nêu trên thì thứ tự xếp hạng của nhà thầu A và B sẽ thay đổi. Hỏi: Chúng tôi phải xử lý tình huống này như thế nào?

Tình huống: Chúng tôi đang tổ chức đấu thầu một gói thầu thi công công trình giao thông theo hình thức đấu thầu rộng rãi quốc tế một giai đoạn hai túi hồ sơ. Trong quá trình kiểm tra và đánh giá tính hợp lệ Hồ sơ đề xuất kỹ thuật (HSĐXKT) của một nhà thầu A, Tổ chuyên gia (TCG) nhận thấy HSĐXKT của nhà thầu A có thỏa thuận liên danh giữa nhà thầu A và nhà thầu B trong đó thống nhất tên là “Liên danh A và B” đồng thời có phân chia phạm vi công việc, tỷ lệ thực hiện công việc của nhà thầu A, B. Tuy nhiên, đơn dự thầu của Nhà thầu này chỉ nêu tên nhà thầu tham dự thầu là “Nhà thầu A” mà không phải là nhà thầu “Liên danh A và B”. Hỏi: Với tình huống này, Tổ chuyên gia phải xử lý như thế nào để phù hợp quy định của pháp luật.

Theo Khoản 7 Điều 4 Quyết định số 17/2019/QĐ-TTg ngày 08 tháng 4 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ quy định quy trình lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt đối với gói thầu có giá gói thầu không quá 50 triệu đồng như sau: “Thủ trưởng cơ quan, đơn vị quyết định việc mua sắm bảo đảm nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả và tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình; không bắt buộc phải ký hợp đồng với nhà cung cấp nhưng phải bảo đảm chế độ hoá đơn, chứng từ đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật (không phải lập, thẩm định, phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu)”. Độc giả xin hỏi chuyên gia: Vậy có cần thực hiện thủ tục phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu đối với gói thầu có giá không quá 50 triệu đồng không?

Một bên mời thầu đang xây dựng hồ sơ mời thầu cho gói thầu mua sắm hàng hóa có câu hỏi như sau: Căn cứ hướng dẫn về việc xác định giá đánh giá quy định tại Bước 5, Điểm 5.2, Mục 5, Chương III - Mầu hồ sơ mời thầu mua sắm hàng hóa áp dụng phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ ban hành kèm theo Thông tư số 05/2015/TT-BKHĐT ngày 16/06/2015 của Bộ kế hoạch và Đầu tư quy định chi tiết lập hồ sơ mời thầu mua sắm hàng hóa, bên mời thầu dự kiến đưa ra công thức xác định giá đánh giá như sau: Gđg = G + Δ1 + Δ2 Trong đó:     Gđg: Là giá đánh giá G: Là giá dự thầu sau sửa lỗi và hiệu chỉnh sai lệch trừ đi giảm giá Δ1: Là giá trị phải cộng thêm đối với đối tượng không được hưởng ưu đãi theo quy định tại Mục 31 CDNT (nếu có); Δ2:  Yếu tố quy đổi hàng hóa được xác định như sau:  Δ2 = G.k k:  là hệ số xuất xứ: + Hàng hóa có xuất xứ từ các nước G7: k = 1; + Hàng hóa có xuất xứ từ các nước khác: k = 1,3; Cơ sở để xác định hệ số k: + Cơ sở pháp lý: Bên mời thầu đã tìm hiểu nhưng chưa tìm thấy văn bản pháp lý nào quy định về điều này và kiến nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư hỗ trợ hướng dẫn. + Cơ sở thực tiễn: Bên mời thầu đang sử dụng một số loại thiết bị tương đương có xuất xứ từ các nước G7, Trung Quốc,... Tuy nhiên trong quá trình đánh giá xác định giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa thì giá trị hao mòn (tuổi thọ còn lại) của các thiết bị có xuất xứ khác nhau thì khác nhau (với cùng một điều kiện làm việc; công tác bảo dưỡng, sửa chữa được thực hiện đúng theo quy định của Nhà chế tạo). Hơn nữa để đảm bảo tình trạng kỹ thuật cho các thiết bị, chi phí bảo dưỡng sửa chữa của các thiết bị tương đương có xuất xứ khác nhau cũng khác nhau. Bình quân một thiết bị có xuất xứ từ các nước G7 có chi phí bảo dưỡng, sửa chữa chỉ bằng 50% so với thiết bị có xuất xứ từ các nước khác nếu hoạt động trong cùng một chu kỳ như nhau. Từ những căn cứ trên, Bên mời thầu kiến nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn có thể áp dụng cách xác định giá đánh giá như trên trong hồ sơ mời thầu không?

Nhà thầu trúng thầu là Công ty A, trong hồ sơ dự thầu chưa dự kiến nhà thầu phụ từ ban đầu. Trong quá trình thi công do bị vướng mặt bằng thi công nên tiến độ bị trễ 02 tháng so với hợp đồng. Từ đó, nhà thầu trên đã có văn bản đề nghị Chủ đầu tư cho phép bổ sung nhà thầu phụ tham gia thi công gói thầu để đáp ứng yêu cầu tiến độ của dụ án với khối lượng công việc giao nhà thầu phụ tương đương 17% giá trị hợp đồng (giá trị tối đa quy định trong HSMT là 20%) với đơn giá giao thầu phụ bằng với đơn giá hợp đồng, Chủ đầu tư chấp thuận nhà thầu phụ sau khi xem xét năng lực của nhà thầu phụ kèm theo điều kiện nhà thầu chính chịu trách nhiệm hoàn toàn mọi mặt đổi với công việc của nhà thầu phụ theo điều khoản của hợp đồng đã ký kết với chủ đầu tư. Đối với trường hợp này, Ban QLDA xin hỏi trình tự chấp thuận nhà thầu phụ nêu trên của Chủ đầu tư có vi phạm Luật Đấu thầu hay không?

Một nhà thầu đang tham dự gói thầu mua sắm hàng hóa thực hiện theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ có câu hỏi như sau: Trong quá trình mở thầu, Bên mời thầu chỉ kiểm tra tình trạng niêm phong và đọc các thông tin cơ bản về tên nhà thầu, số lượng bản gốc, bản chụp hồ sơ mà không đọc rõ các thông tin của từng HSDT của nhà thầu gồm: Giá dự thầu ghi trong đơn dự thầu, giá trị giảm giá (thư giảm giá), hiệu lực bảo đảm dự thầu. Như vậy nếu trong quá trình chấm thầu, một trong số những HSDT có thư giảm giá (hoặc có hơn 01 thư giảm giá) trong hồ sơ, thì các thư giảm giá đó có giá trị hay không và bên mời thầu chấp nhận thư giảm giá đó là đúng hay sai.