Trong Quyết định phê duyệt dự án, giá trị xây dựng là 15,9 tỷ đồng, chi phí thiết bị là 323 triệu đồng (phần thiết bị là máy bơm chữa cháy). Chủ đầu tư đã làm tờ trình phê duyệt kế hoạch LCNT, trong đó phần xây dựng + thiết bị đã gộp làm 1 gói thầu và chủ đầu tư xác định đây là gói thầu hỗn hợp và hình thức lựa chọn nhà thầu là đấu thầu rộng rãi trong nước, 01 giai đoạn 01 túi hồ sơ (Theo mục 23/điều 4/Luật đấu thầu). Tuy nhiên, khi thẩm định tại Sở Kế hoạch đầu tư, phía Sở xác định đây là gói thầu Xây lắp, và thay đổi hình thức LCNT là đấu thầu rộng rãi trong nước (qua mạng). Độc giả xin hỏi: Gói thầu như trên (gói thầu bao gồm xây dựng và thiết bị máy bơm cứu hỏa) thì được xác định là gói thầu gì: Xây lắp hay hỗn hợp. Trường hợp là gói thầu hỗn hợp thì có bắt buộc phải đấu thầu qua mạng không, do hiện nay đối với gói thầu hỗn hợp không có mẫu HSMT?
Trong quá trình đánh giá thầu, có nhà thầu ghi nhầm tên Đơn vị thụ hưởng của bảo đảm dự thầu như sau: Từ "Trung tâm kỹ thuật đường bộ I" lại ghi là "Trung tâm kỹ thuật đường bộ 1" (ghi nhầm "I" thành "1"). Độc giả hỏi: Chúng tôi sẽ xử lý trường hợp này như thế nào?
Công ty chúng tôi đang tổ chức lựa chọn nhà đầu tư dự án sử dụng đất, chỉ có 01 nhà đầu tư vượt qua sơ tuyển. Trong quá trình chỉ định thầu, trường hợp nhà đầu tư được đề nghị chỉ định không cần dùng hết thời gian tối thiểu được quy định trong hồ sơ yêu cầu mà nộp hồ sơ đề xuất trước thời điểm đóng thầu và nhà đầu tư có đề nghị tổ chức mở thầu trước thời điểm mở thầu quy định trong hồ sơ yêu cầu. Xin hỏi chuyên gia: Chúng tôi xử lý tình huống này thế nào?
Trong bảng Tiêu chuẩn đánh giá về năng lực tài chính và kinh nghiệm của HSMT có quy định: “Nhà thầu cung cấp hợp đồng nguyên tắc với đơn vị cung cấp dịch vụ bảo hiểm công trình”. Trong quá trình chuẩn bị HSDT, nhà thầu đã ký với bên cung cấp dịch vụ bảo hiểm 03 bộ hợp đồng nguyên tắc trong đó 02 bộ có đầy đủ chữ ký và dấu của các bên dùng đế gửi chủ đầu tư và bên cung cấp bảo hiểm lưu, 01 bản dùng để lưu chưa có chữ ký của nhà thầu. Do sơ suất trong quá trình tập hợp tài liệu HSDT, Nhà thầu đã đóng nhầm bản lưu có chữ ký và dấu của nhà thầu. Hỏi:
- Việc đóng trong HSDT là hợp dồng thiếu chữ ký của nhà thầu có phải là sai sót nghiêm trọng không? Nhà thầu cung cấp tài liệu làm rõ có được Bên mời thầu tiếp nhận để dánh giá HSDT không?
- HSMT chỉ quy định cho phép làm rõ trong thời gian 03 ngày. Nhà thầu tự gửi hồ sơ làm rõ sau thời gian này có vi phạm pháp luật đấu thầu không?
Công ty A đã có câu hỏi như sau: Công ty A đang tham dự một gói thầu X do một tổ chức tài chính quốc tế tài trợ và căn cứ theo thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng và tài liệu thu thập được là báo cáo tài chính của Công ty B (cùng tham dự gói thầu X nói trên) đã nộp cho Tổng Cục thuế Việt Nam, có đầy đủ chữ ký điện từ và mã vạch, xác định ràng: Doanh thu của công ty B trong những năm 2013 là 24.238.422.313 đồng; năm 2014 là 165.423.269.374 đồng và năm 2015 là 43.323.202.743 đồng. Trong khi dó căn cứ theo yêu cầu của Hồ sơ mời thầu thì doanh thu trung bình hàng năm trong 3 năm liền như trên cúa nhà thầu phải đạt ít nhất 6 triệu USD (tương đương 135 tỷ đồng). Như vậy có thể khẳng định nhà thầu B đã cung cấp báo cáo tài chính dự thầu không trung thực, khai khống doanh thu để qua mặt các bên chấm thầu nhằm vượt qua vòng đánh giá yêu cầu năng lực của HSMT dự án nêu trên. Mặc dù đã xét xong vòng hậu kiểm năng lực của nhà thầu để vào vòng mở giá dối với nhà thầu B. Chúng tôi kiến nghị các bên liên quan tiến hành xác minh nội dung trên nhằm đánh giá bổ xung để đảm bảo không có gian lận trong đấu thầu dự án quốc tế này.
Một công ty tư vấn đấu thầu có tình huống như sau: Tại lễ mở hồ sơ đề xuất kỹ thuật (HSĐXKT), đơn vị tư vấn đấu thầu nhận thấy không có đơn dự thầu Công ty A trong túi HSĐXKT theo quy định trong HSMT. Chủ đầu lư yêu cầu nhà thầu có ý kiến vấn đề nêu trên. Đại diện nhà thầu tham dự lễ mở thầu cho biết đơn dự thầu của nhà thầu đóng chung trong túi HSĐXTC. Qua trao đổi giữa Chủ đầu tư, Đơn vị tư vấn và đại diện các nhà thầu tham dự buổi lề mở thầu, các bên cho phép đại diện nhà thầu A tự mở HSĐXTC của mình để lấy đơn dự thầu cho tư vấn đấu thầu kiểm tra các thông tin về thời gian thực hiện hợp đồng, thời gian có hiệu lực của HSDT và sau đó niêm phong lại HSĐXTC. Tư vấn đấu thầu nhận thấy đơn dự thầu của nhà thầu thực hiện theo mẫu của phương thức một giai doạn-một túi hồ sơ, trong đó thể hiện đầy dủ thời gian thực hiện gói thầu, giá trị dự thầu, thời gian có hiệu lực cùa HSDT. Đơn vị tư vấn đấu thầu kiểm tra và dọc các thông tin trên (trừ giá trị dự thầu). Sau đó, dưới sự chứng kiến cua các bên tham dự lễ mở thầu. HSĐXTC cùa nhà thầu được niêm phong lại. Các thông tin trên được ghi nhận lại trong biên bản mở thầu HSĐXKT (Biên bản ghi rõ: Túi HSĐXKT không có Đơn dự thầu, các thông tin ghi theo Đơn dự thầu thuộc HSĐXTC). Công ty tư vấn muốn hỏi chuyên gia nên đánh giá thế nào với trường hợp nói trên?
Ông Lê Minh ở Bắc Ninh có câu hỏi cho chuyên gia như sau: Theo khoản 3, điều 6 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định đối với gói thầu xây lắp có giá gói thầu không quá 5 tỷ đồng chỉ cho phép nhà thầu là doanh nghiệp cấp nhó và siêu nhỏ theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp tham gia đấu thầu. Công ty của ông Minh có thông tin như sau: Căn cứ vào Báo cáo tài chính, ở bảng cân đối kê toán có tổng tài sản (Tổng nguồn vốn) là trên 20 tỷ (năm 2015 là 14.530.731.854 đồng; năm 2016 là 22.580.405.574 đồng; năm 2017 là 28.142.548.331 đồng). Nhưng có số lao động nhỏ hơn 200 người cụ thể là: năm 2015 là 71 người; năm 2016 là 80 người; năm 2017 là 116 người. Ông Minh hỏi xem công ty có đủ điều kiện tham gia đấu thầu gói thầu xây lắp có giá không quá 5 tỷ đồng không?
Một Công ty tư vấn đấu thầu trong quá trình đánh giá HSDT có tình huống như sau: Nhà thầu A có đệ trình thư giảm giá với thông tin trong thư giảm giá như sau: Giá dự thầu đã ghi trong đơn dự thầu là: 7.933 triệu đồng. Giảm giá so với giá dự thầu là: 85% x 7.933 triệu đồng = 6.743 triệu đồng. Giá dự thầu xin điều chỉnh là: 6.743 triệu đồng. Trong trường hợp này, giá trị giảm giá dự thầu được xác định là 6.743 triệu đồng hay 1.190 triệu đồng (7.933 triệu đồng - 6.743 triệu đồng = 1.190 triệu đồng) hoặc có cách xử lý khác. Công ty muốn xin tư vấn của chuyên gia để xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
Một ban quản lý dự án trong quá trình đánh giá HSDT cho gói thầu xây lắp có tình huống như sau: Theo quy định tại Biểu mẫu số 15 - HSMT: “Nhà thầu phải kê khai những nhân sự chù chốt có năng lực phù hợp đáp ứng các yêu cầu quy định tại điểm a Mục 2.2 Chương III - Tiêu chuẩn đánh giá HSDT và có thế sẵn sàng huy động cho gói thầu; không dược kê khai những nhân sự đã huy động cho gói thầu khác có thời gian làm việc trùng với thời gian thưc hiện gói thầu này. Trường hợp kê khai không trung thực thì nhà thầu sê bị đánh giá là gian lận”. Công ty A là nhà thầu tham gia đấu thầu gói thầu này. Trong HSDT Công ty A kê khai theo Biểu mẫu số 15 các nhân sự chủ chốt tham gia thực hiện gói thầu bao gồm Chỉ huy trưởng công trường và các vị trí Giám sát kỹ thuật. Theo thông tin chúng tôi nắm được (Có tài liệu chứng minh) thì các nhân sự này đều đang được nhà thầu huy động tham gia cho 01 gói thầu khác có thời gian làm việc trùng với thời gian thực hiện gói thầu này (Do gói thầu khác này cũng thuộc cùng Tổng công ty chúng tôi làm Chủ đầu tư). Vậy, việc nhà thầu A kê khai nhân sự như vậy có phải là hành vi gian lận theo quy định nêu trên hay không?
Ông Trần Minh Quân ở Điện Biên có câu hỏi như sau: Theo Khoản 7, Điều 35 Thông tư số 03/2016/TT-BKHĐT ngày 5/5/2016 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định chi tiết đối với hoạt dộng đào tạo, bồi dưỡng về đấu thầu, kể từ ngày 01/01/2018, cá nhân tham gia trực tiếp vào việc lập, thẩm định hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển, hồ sơ mời thầu, hồ Sơ yêu cầu; đánh giá hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, hồ sư dự thầu, hồ sơ đề xuất; thẩm định kết quả mời quan tâm, kết quá mời sơ tuyển, kết quả lựa chọn nhà thầu thuộc tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp, doanh nghiệp, đơn vị tư vắn đấu thầu, ban quản lý dự án chuyên nghiệp, đơn vị mua sắm tập trung phải có chứng chỉ hành nghề hoạt động đấu thầu. Vậy khi Công ty chúng tôi thực hiện hợp dồng tư vấn lựa chọn nhà đầu tư theo hình thức BT (xây dựng - chuyển giao) không phải là lựa chọn nhà thầu, thì các cá nhân lập HSYC lựa chọn nhà đầu tư, đánh giá HSĐX đầu tư có bắt buộc phải có chứng chỉ hành nghề không? Có văn bản pháp luật nào quy định cụ thể, chi tiết về vấn đề này không?
Chúng tôi vừa là chủ đầu tư và cũng là Bên mời thầu. Chúng tôi thuê Đơn vị tư vấn lập HSMT và đánh giá HSDT. Xin hỏi chuyên gia: Vậy, tổ chuyển gia do đơn vị tư vấn hay Bên mời thầu ra quyết định thành lập?
Công ty chúng tôi được thông báo trúng thầu gói thầu dịch vụ tư vấn. Theo đó, để chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, công ty của tôi ủy quyền cho Chi nhánh ký Hợp đồng và đóng dấu của Chi nhánh với khách hàng có được không (khi đó Giám đốc hoặc Phó Giám đốc Chi nhánh ký). Một số ý kiến cho rằng phải phân cấp chứ không được ủy quyền. Hỏi: Trường hợp này, phân cấp hay ủy uyền mới đúng quy định?
Tình huống: Ban QLDA công trình giao thông tỉnh A gặp phải tình huống như sau: Trong quá trình đấu thầu, thảo thuận liên danh A-B quy định, nhà thầu đứng đầu liên danh (A) thực hiện 70% giá trị gói thầu, nhà thầu thành viên liên danh (B) thực hiện 30% giá trị gói thầu. HSMT quy định "Đối với nhà thầu liên danh thì năng lực, kinh nghiệm được xác định bằng tổng năng lực, kinh nghiệm của các thành viên liên danh song phải bảo đảm từng thành viên liên danh đáp ứng năng lực, kinh nghiệm đối với phần việc mà thành viên đó đảm nhận trong liên danh; nếu bất kỳ thành viên nào trong liên danh không đáp ứng về năng lực và kinh nghiệm thì nhà thầu liên danh được đánh giá là không đáp ứng yêu cầu". Tại mục yêu cầu về nhân sự chủ chốt trong hồ sơ mời thầu yêu cầu tối thiếu 20 công nhân kỹ thuật (Chuyên ngành phù họp). Liên danh nhà thầu A-B đăng ký đủ số lượng 20 công nhân kỳ thuật, tuy nhiên toàn bộ sổ lượng công nhân đăng ký huy động đều thuộc sở hữu của nhà thầu đứng đầu liên danh (A), nhà thầu thành viên liên danh (B) không có một công nhân kỹ thuật nào. Trong thỏa thuận liên danh cũng như trong hồ sơ dự thầu của nhà thầu A-B cũng không hề có tài liệu chứng minh hay thỏa thuận về việc sẽ huy động, điều động, luân chuyển nhân sự trong nội bộ thành viên liên danh để phục vụ gói thầu. Câu hỏi: Liên danh A- B có đáp ứng về nhân sự hay không?
Ban Quản lý dự án A có câu hỏi như sau: Chủ đầu tư A tố chức lựa chọn nhà thầu cho gói thầu mua sắm hàng hóa theo hình thức đấu thầu rộng rãi, phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ, hình thức hợp đồng trọn gói. Sau khi xem xét, đánh giá hồ sơ dự thầu và thương thảo hợp đồng, Chủ đầu tư A đà ký kết hợp đồng cung cấp thiết bị với nhà thầu A (nhà thầu xếp hạng thứ nhất) với giá trị họp đồng là X. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện hợp đồng, nhà thầu A không cung cấp đúng loại thiết bị theo yêu cầu và không còn năng lực để tiếp tục hợp đồng. Do đó, chủ đầu tư A từ chối nghiệm thu khối lượng công việc đã thực hiện, hoàn trả toàn bộ thiết bị nhà thầu A đã cung cấp, tiến hành thanh toán hợp đồng và xử lý vi phạm hợp đồng đối với nhà thầu A. Nhà thầu A đã hoàn trả toàn bộ số tiền tạm ứng và nộp phạt theo quy định. Khoản 11 Điều 117 Nghị định 63/2014/NĐ-CP quy định: “Trường hợp nhà thầu thực hiện gói thầu vị phạm hợp đồng, không còn năng lực đề tiềp tục thực hiện hợp đồng, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến độ, chất lượng, hiệu quả của gói thầu thì chủ đầu tư xem xét, báo cáo người có thẩm quyền quyết định cho phép chấm dứt hợp đồng với nhà thầu đó, phần khối lượng công việc chưa thực hiện dược áp dụng hình thức chỉ đinh thầu hoặc các hình thức lựa chọn nhà thầu khác trên cơ sở bảo đảm chất lượng, tiến độ cùa gói thầu. Giá trị phần khối lượng công việc chưa thực hiện giao cho nhà thầu mới được tính bằng giá trị ghi trong hợp đồng trừ đi giá trị của phần khối lượng công việc đã thực hiện trước đó". Vậy trong trường hợp này, chủ đầu tư A được áp dụng hình thức chỉ định thầu cho nhà thầu B với giá trị hợp đồng là X để tiếp tục thực hiện cung cấp thiết bị không? Trường hợp không được áp dụng hình thức chỉ định thầu thì xử lý như thế nào đối với trường hợp này?
Công ty M có câu hỏi cho chuyên gia như sau: Theo Điều 25 Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 quy định tự thực hiện được áp dụng trong trường hợp tổ chức trực tiếp quản lý, sử dụng gói thầu có năng lực kỹ thuật, tài chính và kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu của gói thầu. Điều 61 và Điều 62 khoản 1 Nghị định số 63/2014/NĐ- CP quy đỉnh về các điều kiện được áp dụng hình thức tự thực hiện, trong đố bao gồm: (i) có chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực hoạt động và ngành nghề kinh doanh phù hợp với yêu cầu của gói thầu; (ii) phải chứng minh và thể hiện trong phương án tự thực hiện về khả năng huy động nhân sự, máy móc, thiết bị đáp ứng yêu cầu về tiến độ thực hiện gói thầu; (iii) đơn vị được giao thực hiện gói thầu không được chuyển nhượng khối lượng công việc với tổng số tiền từ 10% giá gói thầu trở lên hoặc dưới 10% giá gói thầu nhưng trên 50 tỷ đồng. Trường hợp gói thầu do đơn vị hạch toán phụ thuộc thực hiện thì trong phương án thực hiện phải bao gồm dự thảo hợp đồng. Trường hợp tổ chức trực tiếp quản lý, sử dụng gói thầu không có đơn vị hạch toán phụ thuộc thì trong phương án thực hiện phải bao gồm dự thảo về thỏa thuận giao việc cho một đơn vị thuộc mình thực hiện. Trên thực tế, một Tổng công ty Nhà nước có nhiều đơn vị trực thuộc gồm Trung tâm tư vấn thiết kế, các Ban quản lý dự án chuyên ngành, Ban quản lý dự án khu vực được thành lập theo Nghị định 59/2015/NĐ-CP ngày 18/6/2015, theo đó mỗi đơn vị có một chức năng, nhiệm vụ riêng đáp ứng được yêu cầu công việc, các điều kiện chuyên ngành và yểu tố đặc thù của Tổng công ty. Tổng công ty Nhà nước ban hành quy chế ủy quyền phân việc, theo đó, giao cho các Ban quản lý dự án khu vực được quyền phê duyệt những dự án đầu tư có tổng mức đầu tư dưới 10 tỷ đồng. Trong trường hợp này, Trung tâm tư vấn thiết kế và Ban quản lý dự án có địa vị pháp lý ngang nhau trong Tổng công ty. Để áp dụng hình thức tự thực hiện gói thầu tư vấn thiết kế đối với các dự án Tổng công ty đã phân cấp ủy quyền cho Ban quản lý dự án khu vực làm chủ đầu tư, Tổng công ty đã ban hành Quy chế phối họp giữa các đơn vị trực thuộc và Quy chế nội bộ về công tác đấu thầu, theo đó quy định về hình thức tự thực hiện, cụ thể: “ Trung tâm tư vấn thiết kế, Ban quản lý dự án là đơn vị trực thuộc Tổng công ty chủ động phối hợp thực hiện công tác tư vấn thiết kế đối với các dự án mà Ban quản lý dự án khu vực được ủy quyền làm chủ đầu tư đảm bảo hiệu quả, tiến độ, chất lượng và tuân thủ các quy định hiện hành”. “Tự thực hiện là việc Chủ đầu tư hoặc Đơn vị quản ty tài sản thông qua thỏa thuận bằng văn bản giao cho bộ phận, đơn vị hạch toán phụ thuộc trong đơn vị mình hoặc cùng hạch toán phụ thuộc một đơn vj cấp trên để thực hiện một hoặc nhiều gói thầu do mình quản ty. Tiêu chí và điều kiện áp dụng hình thức tự thực hiện áp dụng như Quy định của Luật đấu thầu". Như vậy, với các dự án do Ban quản ty dự án khu vực được giao làm chủ đầu tư, phần việc liên quan đến tư vấn thiết kế được Trung tâm tư vấn thiết kế thực hiện trên cơ sở văn bản thỏa thuận giữa Trung tâm và Ban quản ty dự án theo hình thức tự thực hiện có phù hợp với quy định của Pháp luật hay không? Trong trường hợp cần điều chỉnh, bổ sung hoặc ban hành mới các Quy định nội bộ nhằm xây dựng cơ chế phối hợp giữa các đơn vị trực thuộc Tổng công ty để thực hiện các dự án được phân cấp ủy quyền như trên thì có quy định cụ thể hay không và cần điều chỉnh như thế nào để phù hợp với quy định của Pháp luật hiện hành?
Ông Lê Nhật Anh ở Hoài Đức có câu hỏi như sau: Nhà thầu A đang tham dự gói thầu mua sắm hàng hóa trong đó HSMT được lập theo Thông tư 05/2015/TT-BKHĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Theo số liệu tài chính trong báo cáo kiểm toán do nhà thầu đệ trình thì giá trị ròng các năm đều dương nhưng hiện tại Nhà thầu đang nợ thuế. Hỏi nhà thầu có được đánh giá là tình hình tài chính lành mạnh?
Ông Trần Minh Hoàng ở Quảng Bình có câu hỏi như sau: Trong quá trình xem xét đánh giá HSDT của một nhà thầu Liên danh A và B có xảy ra tình huống. Theo thỏa thuận liên danh được ký kết giữa Công ty A và Công ty B thì Công ty A là thành viên đứng đầu liên danh có trách nhiệm ký đơn dự thầu và sử dụng dấu của Công ty A là con dấu của Liên danh. Theo thỏa thuận Liên danh tên gọi của liên danh cho mọi giao dịch liên quan đến gói thầu là: "Liên danh Công ty A và Công ty B" và các thành viên cam kết không đơn vị nào tự ý tham gia độc lập hoặc liên danh với nhà thầu khác để tham gia gói thầu này. Trong đơn dự thầu của Liên danh nói trên, phần tiêu đề ghi là “liên danh Công ty A - Công ty B”, phần ký tên ghi là “đại diện hợp pháp của liên danh nhà thầu - Công ty A” nhưng phần nội dung lại ghi thành: "Chúng tôi, Công ty A cam kết thực hiện gói thầu...." Hỏi trong trường hợp nói trên, đơn dự thầu của nhà thầu có được đánh giá là hợp lệ?
Công ty TNHH Nam Khánh là đơn vị tư vấn đấu thầu. Trong quá trình tư vấn đấu thầu cho một gói thầu xây lắp ở Hải Dương có xảy ra tình huống muốn xin ý kiến của chuyên gia như sau: Theo Điều 5 của Luật đấu thầu số 43 thì nhà thầu phải đăng ký trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia trước thời điểm đóng mở thầu (Đóng mở thầu của gói thầu là ngày 16/03/2019). Trong Hồ sơ đề xuất của 01 nhà thầu có đóng theo 01 đơn đăng ký (ngày trong đơn ghi là 18/01/2019) theo mẫu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư có chữ ký và con dấu của người đại diện hợp pháp của nhà thầu nộp lên Cục quản lý đấu thầu - Bộ kế hoạch và Đầu tư. Nhưng kiểm tra trên hệ thống Muasamcong.mpi.gov.vn thì chưa thấy xuất hiện tên công ty nói trên trên mạng. Bên mời thầu có mời nhà thầu làm rõ thì được biết nhà thầu đăng ký ngày 18/01/2019 nhưng đánh sai mã số thuế thành mã số doanh nghiệp. Vậy công ty chúng tôi muốn hỏi trong trường hợp này nhà thầu nói trên có được đánh giá hợp lệ không?
Ông Lê Thành Đạt đang công tác tại Ban Quản lý dự án ở Quảng Nam có câu hỏi như sau: Theo Điểm d Khoản 2 Điều 111 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định điều kiện để cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động đấu thầu khi có tổi thiểu 4 năm kinh nghiệm liên tục làm các công việc liên quan trực tiếp đến hoạt động đấu thầu hoặc 5 năm kinh nghiệm không liên tục. Tuy nhiên, tại Khoản 7 Điều 35 Thông tư số 03/2016/TT-BKHĐT quy định thì kể từ ngày 01/01/2018, các cá nhân tham gia trực tiếp vào việc lập, thẩm định hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển, hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu, đánh giá hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất, thẩm định kết quả mời thầu quan tâm, kết quả mời sơ tuyển, kết quả lựa chọn nhà thầu thuộc tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp, doanh nghiệp, đơn vị hoạt động tư vấn đấu thầu, ban quản lý dự án chuyên nghiệp, đơn vị mua sắm tập trung phải có chứng chỉ hành nghề hoạt động đấu thầu. Vì vậy, với cá nhân một người chưa hoạt động đấu thầu lần nào trước 01/01/2018, nhưng muốn được cấp chứng chỉ hành nghề trong tương lai. Thì việc đáp ứng Điểm d Khoản 2 Điều 111 Nghị định 63/2014/NĐ-CP được thực hiện ra sao? Và các công việc liên quan trực tiếp đến hoạt động đấu thầu gồm các công việc gì? Có công việc nào liên quan trực tiếp đến việc đấu thầu mà không cần chứng chỉ hành nghề?
Công ty DP có câu hỏi cho chuyên gia như sau: Theo quy định của HSMT: “Hồ sơ dự thầu (HSDT) phải có hiệu lực > 120 ngày kể từ ngày có thời điểm đóng thầu. HSDT nào có thời hạn hiệu lực ngắn hơn quy định sẽ không được tiếp tục xem xét, đánh giá”. (Ngày đóng thầu theo quy định trong Hồ sơ mời thầu là lúc 10 giờ ngày 17/09/2018). Khi mở thầu, Nhà thầu A đã ghi nội dung hiệu lực của Hồ sơ dự thầu trong đơn dự thầu là: “Hồ sơ đề xuất này có hiệu lực trong thời gian 60 ngày, kể từ ngày 17 tháng 09 năm 2018”. Trong biên bản mở thầu cũng đã ghi hiệu lực Hồ sơ dự thầu của nhà thầu này là 60 ngày kể từ ngày 17/9/2018, nhà thầu A có tham dự mở thầu và đã ký xác nhận. Sau đó, ngày 18 tháng 9 năm 2018 nhà thầu đã gửi công văn làm rõ về thời gian có hiệu lực của hồ sơ dự thầu, với nội dung: “Do biết thông tin về gói thầu muộn (16h ngày 14/9/2018) nên thời gian làm bài thầu gấp. Do vậy, không thể tránh khỏi sai sót nên đã đánh thiếu số 1 trước số 60. Nhưng rất mong Chủ đầu tư xem xét chấp thuận sự nhầm lẫn này". Công văn của nhà thầu gửi đến sau thời gian mở thầu nên được coi là công văn làm rõ Hồ sơ dự thầu. Nội dung công văn đã điều chỉnh hiệu lực của hồ sơ dự thầu của nhà thầu từ 60 ngày lên 160 ngày. Như vậy, việc làm rõ hồ sơ dự thầu của nhà thầu đã làm thay đổi bản chất của hồ sơ dự thầu đã nộp. Công ty DP hỏi việc làm rõ về thời gian có hiệu lực của Hồ sơ dự thầu như vậy có được chấp thuận không?